Thực hiện Luật khiếu nại 2011, Nghị quyết số 759/2014/NQ-UBTVQH13 ngày 15/5/2014 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định chi tiết về hoạt động tiếp công dân của cơ quan của Quốc Hội, đại biểu Quốc Hội, hội đồng nhân dân các cấp và quán triệt Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong năm 2015, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền luôn coi trọng, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, từ đó đã tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm quản lý; đồng thời, xác định nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này. Thanh tra Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương chủ động nắm bắt và xử lý các tình huống phức tạp phát sinh trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo; tổ chức nhiều hội nghị triển khai và sơ kết đánh giá công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tập trung rà soát và phối hợp để giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài.
Công tác giải quyết khiếu nại đã có những chuyển biến tích cực, cơ bản đúng quy trình, thủ tục theo quy định của pháp luật, đảm bảo về thời hạn, thời hiệu, đúng thẩm quyền, công khai, khách quan trong thẩm tra, xác minh; việc đối thoại trong giải quyết khiếu nại đã được chú trọng hơn. Khi giải quyết khiếu nại đã có sự linh hoạt áp dụng nhiều biện pháp phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, cơ sở; đặc biệt là công tác hoà giải đã phát huy được áp dụng thiết thực, góp phần giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, cũng như các vụ việc, những mâu thuẫn mới phát sinh trong nhân dân. Nhiều vụ việc khiếu nại đông người, phức tạp, kéo dài đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành phối hợp, tập trung giải quyết ngay từ cơ sở không để phát sinh thành “điểm nóng”[1].
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giải quyết khiếu nại trong thời gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: công tác tham mưu, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; tình trạng vi phạm thời hạn giải quyết vụ việc khiếu nại, tranh chấp hoặc giải quyết đơn không đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về khiếu nại xảy ra còn nhiều;[2] trình tự, thủ tục giải quyết còn thiếu sót, còn nhiều vụ việc không tổ chức đối thoại với người khiếu kiện, không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, có trường hợp việc giải quyết không kịp thời, thiếu trách nhiệm dẫn đến người dân manh động, “tự giải quyết” theo cách của mình dẫn đến vi phạm pháp luật[3].
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó xuất phát từ những bất cập, hạn chế của pháp luật khiếu nại, tập trung vào những vấn đề sau:
– Thứ nhất, về tổ chức đối thoại lần hai.
Luật khiếu nại 2011 quy định người giải quyết khiếu nại lần hai có nghĩa vụ “Tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan”. Nhưng tại điểm a, khoản 1, Điều 21 Thông tư 07/2013/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính quy định: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại hoặc người có trách nhiệm xác minh tổ chức đối thoại…”. Quy định của Thông tư 07/2013/TT-TTCP về mở rộng chủ thể có trách nhiệm đối thoại (người có trách nhiệm xác minh) đã tháo gỡ được một phần khó khăn thực tế hiện nay tại một số địa phương phát sinh nhiều vụ việc khiếu nại, trong đó phần lớn các vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh nên việc Chủ tịch UBND cấp tỉnh phải trực tiếp đối thoại khi giải quyết khiếu nại (lần hai) là rất khó thực hiện. Tuy nhiên, quy định tại Thông tư 07/2013/TT-TTCP lại không phù hợp, đúng tinh thần của Luật khiếu nại 2011 quy định về trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại trong việc đối thoại với người khiếu nại.
Hiện tại Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 02/2016/TT-TTCP sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 07/2013/TT-TTCP quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính (Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 05/12/2016). Theo đó, Thông tư 02/2016/TT-TTCP quy định về tổ chức đối thoại như sau: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại phải tiến hành đối thoại[4]”.Như trên đã phân tích, quy định này về nguyên tắc phù hợp với Luật Khiếu nại nhưng lại chưa phù hợp với thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, nhất là những địa phương phát sinh nhiều vụ việc khiếu nại. Về lâu dài, để tháo gỡ khó khăn từ thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, đồng thời vẫn bảo đảm tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong giải quyết khiếu nại, Luật Khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thì hành cần quy định theo hướng: Người giải quyết khiếu nại chỉ được uỷ quyền cho cấp phó của mình tiến hành đối thoại. Quy định này đảm bảo tính linh hoạt trong hoạt động quản lý hành chính, không ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết khiếu nại, đồng thời phù hợp với Luật tố tụng hành chính 2015 là cho phép người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được uỷ quyền cho cấp phó của mình làm người đại diện trong trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức[5].
– Thư hai, về việc xác định khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng không được giải quyết.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 7 Luật khiếu nại 2011 về trình tự khiếu nại: “Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết lần đầu…”. Đồng thời, Điều 18, 19 và Điều 21 Luật khiếu nại 2011 quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai: “Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của… đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng không được giải quyết”. Theo quy định tại các điều luật này, khi khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn mà không được giải quyết thì người khiếu nại phải thực hiện thủ tục khiếu nại lần hai và người có thẩm quyền phải thực hiện trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1, Điều 31 Luật khiếu nại 2011: “Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại”. Đoạn 2, khoản 1, Điều 33 quy định:“Trong trường hợp khiếu nại lần hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai”. Thực tế cho thấy, quy định này chỉ đúng với trường hợp khiếu nại lần đầu được thụ lý giải quyết, còn trong trường hợp người khiếu nại lần hai với lý do “khiếu nại lần đầu đã hết hạn nhưng không được giải quyết” thì không thể thực hiện theo quy định nêu trên vì khiếu nại lần đầu không được giải quyết thì không thể có quyết định giải quyết lần đầu để gửi kèm theo đơn khiếu nại lần hai. Bên cạnh đó, việc quy định “Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại” cũng sẽ dẫn đến cách hiểu nếu khiếu nại lần đầu chưa được xem xét, giải quyết thì không thể ban hành quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không thể coi là khiếu nại đã được giải quyết.
Thực tế nêu trên dẫn đến người giải quyết khiếu nại lần hai không thể xác định được khiếu nại trong trường hợp này là lần đầu hay lần hai bởi vì những mâu thuẫn ở ngay chính các quy định của pháp luật khiếu nại. Vì nếu xác định là giải quyết khiếu nại lần đầu thì sẽ phát sinh thẩm quyền giải quyết lần hai ở cấp cao hơn, điều này là không đúng về thẩm quyền giải quyết, còn nếu xác định là giải quyết lần hai vì cho rằng người có thẩm quyền đã giải quyết lần đầu từ bỏ trách nhiệm giải quyết thì có nguy cơ ảnh hưởng đến quyền lợi của người khiếu nại, đồng thời sẽ không đề cao trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại. Đây là vấn đề cần có hướng dẫn cụ thể trong các văn bản dưới luật để thống nhất áp dụng và bảo đảm quyền của người khiếu nại.
– Thứ ba, về tình trạng chuyển từ khiếu nại sang tố cáo.
Trên thực tế xảy ra tình trạng người khiếu nại sau khi không đạt được mục đích của mình, đã chuyển sang tố cáo người giải quyết khiếu nại, gây ra nhiều khó khăn, lúng túng cho các cơ quan nhà nước. Về vấn đề này hiện có 2 quan điểm khác nhau khi xử lý vụ việc. Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu tố cáo có cơ sở thì phải thụ lý và giải quyết theo trình tự thủ tục quy định; quan điểm thứ hai cho rằng, bản chất đây là việc khiếu nại, nên không thụ lý giải quyết nội dung tố cáo mà cần tập trung vào việc giải quyết khiếu nại nếu khiếu nại có căn cứ. Tuy nhiên, hiện vấn đề này còn chưa có hướng dẫn cụ thể để xem xét, xử lý cho thỏa đáng.
– Thứ tư, về thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
Luật khiếu nại 2011 quy định về việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật song lại chưa được quy định và hướng dẫn cụ thể làm cơ sở cho việc tổ chức thi hành như: trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên có liên quan, trình tự thủ tục trong việc triển khai, việc tổ chức cưỡng chế, việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, việc phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong tổ chức thi hành cũng chưa được chặt chẽ và đầy đủ. Vì vậy, quá trình tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, thậm chí dẫn đến sai phạm, gây bức xúc cho người dân và dư luận xã hội.
Trên thực tế, có không ít vụ việc đã được giải quyết hết thẩm quyền, đúng chính sách, pháp luật, đã được rà soát, thông báo nhưng công dân vẫn không đồng ý, tiếp tục khiếu nại đến nhiều cấp, nhiều ngành kể cả lên Trung ương, nhưng không cung cấp được bằng chứng, tình tiết mới. Các cơ quan nhà nước lại thiếu thống nhất trong việc chấm dứt, từ chối không thụ lý giải quyết, nên vụ việc kéo dài, gây lãng phí thời gian, công sức của cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, một trong những lý do của khiếu nại không có điểm dừng, nhất khiếu nại về đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng, do chính sách áp dụng trong giải quyết lần đầu và các lần tiếp theo thiếu nhất quán, nên không được sự đồng tình của nhân dân, khiếu nại kéo dài. Vì vậy, cần nghiên cứu một cơ chế riêng để giải quyết khiếu nại về đền bù, giải phóng mặt bằng, chính sách đất đai.
Nguyên nhân dẫn đến những bất cập, hạn chế nêu trên xuất phát từ những hạn chế, bất cập của Luật khiếu nại 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Những vấn đề này cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại.
ThS. Lê Văn Đức – Viện Khoa học Thanh tra
(Nguồn http://giri.ac.vn){jcomments off}
[1] Báo cáo số 984/BC-UBTVQH13 ngày 05/11/2015 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội.
[2] Báo cáo số 984/BC-UBTVQH13 ngày 05/11/2015 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội.
[3] Báo cáo số 2804/BC-UBPL13 ngày 14/11/2014 của Uỷ ban Pháp luật về kết quả giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước.
[4] Khoản 7, Điều 1, Thông tư 02/2016/TT-TTCP
[5] Khoản 3, Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015.
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bir hesabınız yoksa, gerekli bilgileri doldurarak Mostbet web sitesine kaydolabilirsiniz.
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn https://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)