Việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 đã góp phần hoàn thiện các cơ chế, chính sách, trình tự, thủ tục trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và khắc phục tối đa những hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, triển khai, nhận thấy một số quy định của Luật còn những khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục được hoàn thiện.
Một số khó khăn, vướng mắc
Một là, theo quy định tại khoản 5 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 29 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2020 thì: “…trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản và các tài liệu khác phải được chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa”. Theo quy định trên thì thời gian 24 giờ là thời hạn liên tục (cả giờ hành chính và ngoài giờ hành chính, ngày nghỉ, lễ). Tuy nhiên, trong trường hợp người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính vào ngày nghỉ, lễ, tết thì việc chuyển biên bản và hồ sơ đề nghị người có thẩm quyền xử phạt sẽ gặp khó khăn, trong khi có những hành vi vi phạm nếu không lập biên bản vi phạm hành chính ngay thì việc tìm đối tượng để lập biên bản là rất khó.
Hai là, điểm b khoản 4 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 65 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định “Hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày thông báo lần thứ hai nếu người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp không đến nhận thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, người có thẩm quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”. Tuy nhiên, việc quy định như trên sẽ dẫn đến có một số trường hợp khi hết thời hạn 01 năm thì một số hàng hóa là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính sẽ bị hết hạn sử dụng hoặc bị hư hỏng, gây khó khăn trong quá trình xử lý trong thực tiễn.
Ba là, Theo quy định tại khoản 8 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 64 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2020 thì “Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày tạm giữ; trường hợp vụ việc phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn tạm giữ không quá 10 ngày làm việc, kể từ ngày tạm giữ”
Điểm a khoản 1 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định “vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật này”.
Như vậy, trong trường hợp việc tạm giữ được thực hiện trước khi lập biên bản vi phạm hành chính thì khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì sẽ bị quá thời hạn tạm giữ 02 ngày. Quy định về thời hạn tạm giữ như trên là quá ngắn, gây không ít khó khăn trong quá trình xử lý vụ việc, đặc biệt là việc tạm giữ, thực hiện giám định về hàng hóa. Vì đối với các trường hợp để lấy mẫu kiểm nghiệm, giám định thì thời hạn thường trên 10 ngày mới có kết quả.
Bốn là, tại Điều 9 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định có 08 tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, các tình tiết giảm nhẹ phần lớn còn quy định khá chung chung, định tính và chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trên thực tế như: “Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại”; “Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính”… Do đó, khi căn cứ các quy định nói trên, người có thẩm quyền xử phạt có tâm lý “sợ sai” nên không áp dụng cho “an toàn”, đồng thời dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất trong việc áp dụng quy định của pháp luật.
Một số kiến nghị, đề xuất
Thứ nhất, tại Điều 2, Luật Xử lý vi phạm hành chính cần bổ sung quy định đối với các khái niệm về yếu tố lỗi trong vi phạm hành chính (gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý), mức độ của hành hành vi (như ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng…) để cơ quan chức năng có căn cứ xác định.
Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ (hoặc cả tăng nặng) tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng định lượng, cụ thể, tránh tâm lý “sợ sai” khi áp dụng của cán bộ thực thi pháp luật hoặc tình trạng mỗi nơi áp dụng một kiểu, thiếu thống nhất.
Thư ba, quy định lại thời gian chuyển biên bản vi phạm hành chính (tại khoản 5 Điều 58) trong trường hợp không thuộc thẩm quyền xử lý từ 24 giờ lên 72 giờ để cơ quan thực thi pháp luật đủ thời gian hoàn thiện hồ sơ và chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt.
Thứ tư, ban hành quy định cụ thể về giá thị trường của địa phương tại thời điểm xảy ra vi phạm tại Điều 60 của Luật Xử lý vi phạm hành chính để xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt, thẩm quyền tịch thu và xử lý.
Thứ năm, quy định lại việc niêm phong tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 5b Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng “khi thực hiện việc tạm giữ, người lập biên bản, người có thẩm quyền tạm giữ có thể niêm phong tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ trong trường hợp xét thấy cần thiết trừ các trường hợp…”.
Thứ sáu, tại điểm b khoản 4 Điều 126 của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cần giảm thời gian thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đối với các tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ trong trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp từ 01 năm xuống còn 30 ngày như Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 trước đây là phù hợp.
Bên cạnh đó, cần bổ sung các căn cứ để tiến hành biện pháp khám người, khám phương tiện vận tải đồ vật, khám nơi cất dấu tang vật phương tiện vi phạm hành chính chi tiết cụ, thể theo hướng: Căn cứ do người thực hiện nhiệm vụ trực tiếp phát hiện như kiểm tra phương tiện, hàng hóa nhưng không có giấy tờ hợp pháp, đối tượng có biểu hiện như bỏ trốn, tiêu hủy, tẩu tán tang vật, phương tiện vi phạm; cản trở, chống đối lực lượng làm nhiệm vụ. Căn cứ thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thông qua tin báo của quần chúng nhân dân, qua phương tiện thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, qua lời khai của đối tượng vi phạm, qua biện pháp nghiệp vụ của ngành công an, có như vậy khi áp dụng trên thực tế mới bảo đảm chính xác, khách quan, bảo đảm đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền công dân, quyền con người và đồng thời góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Trần Thị Thu Hà, giảng viên, Khoa Nghiệp vụ II
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bir hesabınız yoksa, gerekli bilgileri doldurarak Mostbet web sitesine kaydolabilirsiniz.
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn https://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)