Một số bất cập, hạn chế trong việc thực hiện các quy định pháp luật về hoạt động thanh tra. Một số kiến nghị, đề xuất
Thứ nhất, việc xây dựng, trình phê duyệt và ban hành kế hoạch thanh tra hàng năm khó đảm bảo thời hạn quy định. Điều 36 Luật Thanh tra, Điều 39 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2012 quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành; Thông tư số 01/2014/TT-TTCP ngày 01/7/2014 quy định việc xây dựng, phê duyệt định hướng chương trình thanh tra, kế hoạch thanh tra có quy định về các mốc thời gian xây dựng, trình phê duyệt và ban hành kế hoạch thanh tra với từng cấp là khác nhau.
1. Một số khó khăn, vướng mắc về thực hiện quy định pháp luật trong hoạt động thanh tra
1.1. Quy định về xây dựng định hướng chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm; Thời hạn trong hoạt động thanh tra; Hình thức thanh tra
Về định hướng, chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm
Thứ nhất, việc xây dựng, trình phê duyệt và ban hành kế hoạch thanh tra hàng năm khó đảm bảo thời hạn quy định. Điều 36 Luật Thanh tra, Điều 39 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2012 quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành; Thông tư số 01/2014/TT-TTCP ngày 01/7/2014 quy định việc xây dựng, phê duyệt định hướng chương trình thanh tra, kế hoạch thanh tra có quy định về các mốc thời gian xây dựng, trình phê duyệt và ban hành kế hoạch thanh tra với từng cấp là khác nhau. Theo các quy định này, chậm nhất 30/10 hàng năm, Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm xem xét, phê duyệt định hướng, chương trình thanh tra. Sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng, chương trình thanh tra, trong thời gian 05 ngày, Tổng Thanh tra Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn thanh tra bộ, thanh tra tỉnh lập kế hoạch thanh tra trình Thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Chậm nhất vào ngày 15/11 hằng năm, Chánh thanh tra bộ, thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chánh thanh tra tỉnh căn cứ vào định hướng, chương trình thanh tra, hướng dẫn của Tổng Thanh tra Chính phủ và yêu cầu công tác quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt kế hoạch thanh tra… Tuy nhiên, thực tiễn thi hành cho thấy, dự thảo định hướng chương trình thanh tra hoàn thành và gửi Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/10 hàng năm nhưng phải chờ thời gian để Văn phòng Chính phủ thẩm định và làm thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ đồng ý, do vậy việc ban hành văn bản hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ đối với thanh tra bộ, thanh tra tỉnh xây dựng kế hoạch thanh tra khá gấp và chậm dẫn đến việc xây dựng kế hoạch thanh tra hằng năm của bộ, ngành, địa phương bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, với các quy định trên, khoảng thời gian để xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch thanh tra là quá ngắn (chỉ từ 10 đến 15 ngày) là không đủ thời gian, điều kiện để thu thập thông tin, tài liệu, nắm tình hình khảo sát để xây dựng kế hoạch thanh tra và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời, việc khảo sát, nắm tình hình phụ thuộc vào công tác phối hợp và tiến độ phản hồi, cung cấp thông tin, tài liệu, hồ sơ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị khảo sát, dự kiến thanh tra, do vậy với các mốc thời gian trên nên các bộ, ngành, địa phương khó đảm bảo đúng quy định về thời hạn ban hành kế hoạch thanh tra.
Thứ hai, việc xây dựng, ban hành kế hoạch thanh tra có tình trạng trùng lắp, chồng chéo giữa cơ quan thanh tra với Kiểm toán Nhà nước cụ thể trong hoạt động thanh tra về ngân sách, tài chính và sử dụng vốn đầu tư công. Nguyên nhân của tình trạng trên do chưa có quy định để xử lý chồng chéo giữa kế hoạch thanh tra và kế hoạch kiểm toán. Bên cạnh đó, sự chồng chéo trong hoạt động thanh tra cũng xuất phát từ việc Luật Thanh tra chưa đưa ra quy định thanh tra sở khi xây dựng kế hoạch thanh tra phải căn cứ vào định hướng chương trình của thanh tra bộ; chưa quy định kế hoạch thanh tra của thanh tra sở sau khi được phê duyệt phải gửi cho thanh tra bộ để có sự điều chỉnh kịp thời, nếu có chồng chéo, trùng lắp; chưa có quy định điều chỉnh xử lý chồng chéo giữa kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ và thanh tra sở, ngành; chưa có quy định về xử lý chồng chéo trong trường hợp trùng lắp về đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra nhưng bị điều chỉnh bởi kế hoạch thanh tra ở hai năm liền kề nhau.
Thứ ba, kế hoạch thanh tra hàng năm được xây dựng và phê duyệt từ cuối năm trước phải có đối tượng thanh tra cụ thể. Quy định này chỉ phù hợp với thanh tra hành chính mà không phù hợp với thanh tra chuyên ngành, bởi lẽ hoạt động thanh tra chuyên ngành phải được tiến hành thường xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.
Về thời hạn trong hoạt động thanh tra
Các thời hạn trong hoạt động thanh ra đều quy định chung là “ngày”. Tuy nhiên thực tiễn thi hành ở các đoàn thanh tra của các bộ, ngành, địa phương không thống nhất, có nơi áp dụng là “ngày làm việc”, có nơi áp dụng là “ngày liên tiếp theo lịch” nên thời gian thanh tra thực tế tại đơn vị của một số đoàn thanh tra chưa thống nhất. Ngoài ra, theo điểm c, khoản 1, Điều 35 Luật Thanh tra thì cuộc thanh tra do thanh tra huyện, thanh tra sở tiến hành không quá 30 ngày, ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 45 ngày. Như vậy, Luật Thanh tra không quy định kéo dài, gia hạn đối với cuộc thanh tra do thanh tra huyện, thanh tra sở tiến hành nhưng có tính chất phức tạp. Quy định này dẫn đến khó khăn trong thực tiễn thi hành đối với cấp sở, huyện.
Về hình thức thanh tra
Theo quy định tại Điều 37 Luật Thanh tra có 3 hình thức thanh tra gồm: thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất. Tuy nhiên, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về hình thức thanh tra thường xuyên, dẫn đến trong 6 năm thi hành Luật Thanh tra, các bộ, ngành, địa phương đều chưa thực hiện hình thức thanh tra này. Đối với thanh tra đột xuất, theo quy định, thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật; theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng hoặc do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về thanh tra hiện nay chưa đưa ra quy định cụ thể tính chất, mức độ vi phạm pháp luật làm căn cứ tiến hành thanh tra; chưa xác định được rõ các yêu cầu, nhiệm vụ của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng. Ngoài ra, pháp luật về thanh tra cũng chưa quy định, hướng dẫn đối với thanh tra chuyên đề, thanh tra diện rộng nên trong thực tiễn thi hành còn gặp khó khăn, vướng mắc.
Ngoài ra, đối với hoạt động thanh tra liên ngành, Luật Thanh tra chưa có quy định, hướng dẫn về hoạt động thanh tra này. Hoạt động thanh tra liên ngành được đề cập, tại khoản 3, Điều 19; khoản 4, Điều 20 và khoản 1, Điều 21 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra. Tuy nhiên, các quy định này còn rất mờ nhạt, chưa quy định cụ thể về vai trò, trách nhiệm của thành viên của các cơ quan được cử tham gia đoàn thanh tra liên ngành. Quá trình kết luận về nội dung liên quan đến ngành, lĩnh vực, xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra chưa có quy định bắt buộc phải lấy ý kiến tham gia của các cơ quan cử thành viên. Do vậy, vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực tham gia đoàn liên ngành chưa phát huy đúng mức, dẫn đến nhiều trường hợp, kết quả cuộc thanh tra liên ngành không có nhiều sự khác biệt với một cuộc thanh tra thông thường. Ngoài ra, pháp luật về thanh tra chỉ quy định hoạt động thanh tra hành chính mới thành lập đoàn thanh tra liên ngành, trong khi thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành của các ngành, lĩnh vực thường xuyên được thành lập đoàn liên ngành để cùng thực hiện chức năng thanh tra đối với cùng đối tượng thanh tra.
1.2. Trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành
Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định về trình tự, thủ tục áp dụng cho thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có những đặc thù riêng, phạm vi và quy mô của cuộc thanh tra ở mỗi cấp, mỗi ngành là khác nhau nên khó có thể áp dụng trình tự, thủ tục chung theo quy định. Quy định về trình tự, thủ tục hoạt động thanh tra chuyên ngành chưa phù hợp với thực tế đa dạng, chuyên sâu của hoạt động thanh tra chuyên ngành, cụ thể:
– Trong một số hoạt động thanh tra chuyên ngành, quy định về việc gửi quyết định thanh tra đến đối tượng thanh tra trước khi tiến hành thanh tra tại Khoản 5, Điều 36 Luật Thanh tra có thể khiến đối tượng thanh tra xóa dấu vết vi phạm, gây khó khăn cho hoạt động thanh tra. Quy định này cũng không phù hợp với đặc điểm của ngành, địa phương trong trường hợp kế hoạch thanh tra chỉ xác định được đối tượng thanh tra theo diện rộng, theo địa bàn, nhóm đối tượng thanh tra mà không thể xác định được đích danh đối tượng thanh tra trong kế hoạch thanh tra (ví dụ: thanh tra vệ sinh thực phẩm, dược phẩm, cơ sở y tế…). Bên cạnh đó, Luật Thanh tra quy định trong thời hạn 15 ngày, quyết định thanh tra phải được công bố cho đối tượng thanh tra và phải được lập biên bản, nhưng qua thực tế khi thực hiện gặp nhiều khó khăn, như một cuộc thanh tra có nhiều đối tượng thanh tra và nằm ở các địa bàn rộng, các đơn vị hành chính lại xa trung tâm, đặc biệt đối với miền núi, biên giới đi lại khó khăn, không thể triệu tập tất cả các đối tượng thanh tra để công bố quyết định thanh tra gây khó khăn, phiền hà, tốn kém về kinh phí, phương tiện đi lại của đối tượng thanh tra. Ngoài ra, quy định về việc công bố quyết định thanh tra trước khi thanh tra đột xuất cũng gây nên những trở ngại tương tự, nhất là trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, y tế, dược phẩm, môi trường ngành nghề kinh doanh nhạy cảm… Hơn nữa, quy định việc công bố quyết định thanh tra phải được lập biên bản cũng tạo thêm thủ tục rườm rà đối với mỗi cuộc thanh tra diễn ra trong thời gian quá ngắn. Thời gian tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành diễn ra nhanh, đối với nhiều lĩnh vực thì thời gian thanh tra tại đơn vị thường rất ngắn (có thể chỉ 01 buổi), do đó thủ tục tiến hành công bố quyết định thanh tra là không cần thiết phải lập thành biên bản công bố riêng.
– Việc ghi nhật ký đoàn thanh tra cũng cần được quy định theo hướng ngắn gọn, tinh giản, giảm bớt thủ tục hành chính. Đoàn thanh tra thường chia thành các tổ, nhóm làm việc độc lập, trong khi đó sổ nhật ký chỉ có một và do Trưởng đoàn thanh tra quản lý nên việc ghi sổ nhật ký cũng gặp khó khăn, làm mất nhiều thời gian của Trưởng đoàn thanh tra.
– Việc quy định công khai kết luận thanh tra chưa phù hợp với đoàn thanh tra chuyên ngành; thiếu linh hoạt, không phù hợp với một số ngành như ngành ngân hàng, việc thông tin cụ thể về kết luận thanh tra có thể gây ra các rủi ro về thị trường tín dụng, ảnh hưởng đến xã hội.
– Việc giao thanh tra viên tiến hành độc lập chưa có hướng dẫn cụ thể, như: chưa có quy định về trình tự, cách thức thực hiện thanh tra độc lập, giám sát hoạt động của công chức thanh tra chuyên ngành độc lập nên chưa có sự thống nhất thực hiện phương thức thanh tra này trong hoạt động thanh tra chuyên ngành.
– Các văn bản hướng dẫn Luật Thanh tra chưa có quy định về mẫu văn bản hướng dẫn cụ thể về thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, do đó cần rà soát và ban hành mẫu văn bản để đảm bảo tính thống nhất.
– Các văn bản hướng dẫn Luật Thanh tra chưa có quy định cụ thể về địa điểm thanh tra nên có khó khăn, vướng mắc trong thực hiện.
– Việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và ban hành kết luận thanh tra khó có thể thực hiện đúng theo quy định tại Điều 49, Điều 50 Luật Thanh tra. Luật Thanh tra quy định thời gian xây dựng báo cáo và kết luận thanh tra tối đa 30 ngày áp dụng cho tất cả các cơ quan thanh tra, trong khi đó, thời hạn tiến hành thanh tra ở mỗi cấp thanh tra là khác nhau. Trên thực tế, sau khi kết thúc thanh tra, đoàn thanh tra phải có nhiều thời gian để đối chiếu quy định, xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, báo cáo người ra quyết định thanh tra, xây dựng dự thảo kết luận thanh tra, lấy ý kiến của các cơ quan chức năng, ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra để hoàn thiện dự thảo kết luận thanh tra. Người ký kết luận thanh tra cũng cần có thời gian để nghiên cứu, cân nhắc các khía cạnh khác nhau, do đó, thời hạn 30 ngày là chưa phù hợp với thực tế, thiếu khả thi, nhất là các cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ, thanh tra bộ tiến hành và đặc biệt là các cuộc thanh tra liên ngành, cuộc thanh tra có quy mô lớn và tính chất phức tạp thường phải xin ý kiến của các cơ quan chuyên môn, xin ý kiến của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước.
1.3. Việc thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra
Nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra đã được quy định cụ thể trong Luật Thanh tra, tạo thuận lợi, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Tuy nhiên, một số quyền khó thực hiện trong thực tế. Theo đó:
– Quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu được quy định tại Điều 46, Điều 47 và Điều 48 Luật Thanh tra. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này trên thực tế vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, có không ít trường hợp đối tượng thanh tra cố tình tìm lý do để không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, cung cấp không kịp thời làm ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng thanh tra. Nguyên nhân là do chưa có quy định chế tài cụ thể để xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến nội dung này.
– Quyền trưng cầu giám định: Điều 48 Luật Thanh tra quy định người ra quyết định thanh tra có quyền trưng cầu giám định về vấn đề liên quan nội dung thanh tra. Kinh phí trưng cầu giám định do cơ quan tiến hành thanh tra chi trả, trường hợp đối tượng thanh tra có sai phạm thì kinh phí giám định sẽ do đối tượng thanh tra chi trả, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc quy định này gây khó khăn cho cơ quan thanh tra, bởi vì chi phí cho giám định thường rất cao.
– Quyền yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng trái pháp luật đã được quy định tại Điều 48 Luật Thanh tra và Điều 40 Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định khi nào thì phải ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật; chưa quy định cụ thể về thủ tục yêu cầu tạm giữ; đồ vật, tài sản bị hư hỏng, mất mát trong quá trình tạm giữ… Do đó, việc thực hiện quyền này trong quá trình thanh tra cũng khó thực hiện.
– Quyền yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài khoản: Việc phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-TTCP-NHNN ngày 25/11/2015 của Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng trên thực tế rất khó thực hiện, bởi lẽ đây là một quyền năng rất lớn nhưng cũng rất nhạy cảm, phức tạp việc thực hiện sẽ có thể ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của đối tượng thanh tra, đặc biệt là đối với doanh nghiệp.
1.4. Hoạt động giám sát đoàn thanh tra; việc tổ chức thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra
– Hoạt động giám sát đoàn thanh tra có mục đích sẽ giúp đoàn thanh tra chấp hành tốt hơn quy chế hoạt động của Đoàn, đảm bảo thực hiện đúng trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra. Tuy nhiên, quá trình áp dụng quy định giám sát hiện nay gặp khó khăn do số lượng biên chế của cơ quan thanh tra hạn chế, trong khi cùng thời điểm phải tổ chức nhiều đoàn thanh tra, dẫn đến không có người để tổ chức giám sát. Thực tế, hoạt động giám sát chỉ thực hiện chủ yếu qua báo cáo của đoàn thanh tra, do vậy không đảm bảo tính khách quan, chính xác. Ngoài ra, pháp luật về thanh tra mới chỉ quy định nội dung giám sát, chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành giám sát. Thực tiễn cho thấy, quy định về giám sát hoạt động đoàn thanh tra chỉ phù hợp với Thanh tra Chính phủ, thanh tra bộ, không phù hợp với Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện, thanh tra sở, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và đoàn thanh tra chuyên ngành.
– Việc thẩm định dự thảo kết luận thanh tra nhằm chỉ ra những điểm bất hợp lý, đưa ra những đề xuất, kiến nghị có cơ sở pháp lý vững chắc, giúp người ra quyết định thanh tra ban hành kết luận thanh tra chính xác, khách quan, đúng pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có quy định cụ thể về tổ chức thẩm định và quy trình thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra; chưa có quy định hướng dẫn việc xử lý trong trường hợp ý kiến thẩm định khác với các nội dung kết luận thanh tra. Bên cạnh đó, trên thực tế, một số kết luận thanh tra phải điều chỉnh nội dung sau khi được ban hành, song hiện nay, chưa có quy định cụ thể về căn cứ, thẩm quyền cũng như hình thức, thể thức ban hành nên việc ra văn bản điều chỉnh nội dung kết luận thanh tra đang gặp vướng mắc, lúng túng, mỗi nơi có những cách làm khác nhau.
1.5. Quyền, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra
Luật Thanh tra quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra nhằm tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm thực thi pháp luật trong hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, pháp luật thanh tra chưa có quy định chế tài xử lý khi đối tượng thanh tra không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ theo quy định pháp luật, do vậy, việc yêu cầu các đối tượng thanh tra thực hiện nghĩa vụ hiện nay còn gặp nhiều khó khăn.
2. Một số kiến nghị, giải pháp
Thứ nhất, về xây dựng, phê duyệt định hướng, chương trình, kế hoạch thanh tra; thời hạn, hình thức thanh tra
– Cần nghiên cứu quy định cụ thể thời gian phê duyệt kế hoạch thanh tra của từng cấp, cụ thể cần điều chỉnh thời gian phê duyệt và ban hành kế hoạch thanh tra hằng năm theo hướng tăng thời hạn thực hiện của địa phương so với cấp Trung ương. Để đảm bảo đúng thủ tục, hạn chế chồng chéo và đúng định hướng thì định hướng, chương trình thanh tra phải được phê duyệt sớm hơn và cấp trên phê duyệt trước cấp dưới.
– Quy định cụ thể việc xử lý chồng chéo, trùng lắp trong kế hoạch thanh tra giữa các bộ ngành, giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp tỉnh và cấp huyện; quy định xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm toán, nhất là doanh nghiệp; quy định cụ thể hơn về đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra trong thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành tránh chồng chéo trong hoạt động.
– Quy định thống nhất là “ngày làm việc” trong tất cả các quy định liên quan đến thời gian, thời hạn trong hoạt động thanh tra; bổ sung thêm quy định việc kéo dài, gia hạn thời gian thanh tra đối với đoàn thanh tra do thanh tra sở, Thanh tra huyện thực hiện.
– Hình thức thanh tra: Cần có hướng dẫn cụ thể về hình thức thanh tra thường xuyên trong hoạt động thanh tra chuyên ngành. Quy định căn cứ ban hành quyết định thanh tra đột xuất theo hướng quy định cụ thể về tính chất, mức độ vi phạm pháp luật làm căn cứ tiến hành thanh tra, xác định rõ các yêu cầu, nhiệm vụ của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Nghiên cứu, bổ sung thêm quy định về các cuộc thanh tra chuyên đề, thanh tra diện rộng. Bổ sung quy định về thanh tra liên ngành như căn cứ thành lập đoàn, thẩm quyền ban hành quyết định, Đoàn thanh tra liên ngành, quan hệ công tác, quy chế báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra liên ngành… để làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra liên ngành.
Thứ hai, về trình tự, thủ tục, thời hạn tiến hành thanh tra
– Cần quy định cụ thể hơn về thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, cần phân biệt giữa đối tượng, nội dung giữa đoàn thanh tra hành chính tiến hành thanh tra kinh tế – xã hội và đoàn thanh tra việc chấp hành pháp luật để tránh chồng chéo hoặc bỏ sót các đối tượng thanh tra, lĩnh vực thanh tra phát sinh nhiều hành vi vi phạm; bổ sung quy định mang tính phân biệt giữa hoạt động thanh tra chuyên ngành và hoạt động kiểm tra mang tính quản lý nhà nước chuyên ngành.
– Sửa đổi các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra cho phù hợp với đặc thù của hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và đối với từng lĩnh vực cụ thể; ban hành những quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành theo hướng rút gọn, phù hợp với thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành; quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thanh tra theo chuyên đề diện rộng.
– Bổ sung quy định về địa điểm thanh tra: Việc thanh tra có thể được thực hiện tại đơn vị được thanh tra, trụ sở cơ quan thanh tra hoặc tại địa điểm do người ra quyết định thanh tra yêu cầu.
– Sửa đổi thời hạn xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và ban hành kết luận thanh tra. Luật Thanh tra cần quy định thời hạn xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và ban hành kết luận thanh tra tăng dần như thời hạn tiến hành thanh tra ở mỗi cấp thanh tra; bổ sung quy định về thời gian xin ý kiến của cơ quan chuyên môn, thời gian báo cáo, xin ý kiến của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong một số trường hợp.
Thứ ba, về thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra
Quy định cụ thể phương thức thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra, đặc biệt đối với quyền trưng cầu giám định, quyền yêu cầu cung cấp thông tin, quyền phong tỏa tài khoản…
Thứ tư, về hoạt động giám sát đoàn thanh tra; việc tổ chức thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra
– Qua thực tiễn cho thấy, việc giám sát hoạt động đoàn thanh tra không phù hợp với nhiều tổ chức, đơn vị thanh tra, nhất là những nơi có lực lượng thanh tra còn mỏng, tính chất cuộc thanh tra còn đơn giản. Do vậy, cần nghiên cứu để luật hóa hoặc bãi bỏ quy định này nhằm đảm bảo tính khả thi, tránh hình thức.
– Cần quy định cụ thể vấn đề thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện. Việc thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra là cần thiết nhằm đảm bảo kết luận thanh tra được chính xác, khách quan, khả thi; bổ sung quy định điều chỉnh nội dung kết luận thanh tra như căn cứ, thẩm quyền, hình thức ban hành.
Thứ năm, cần nghiên cứu ban hành nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra, trong đó quy định cụ thể về chế tài xử lý đối với đối tượng thanh tra không thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về thanh tra./.
Hồ Thị Thu An
Trưởng phòng, Vụ Pháp chế, TTCP
(Nguồn http://giri.ac.vn)
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn http://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)