Nghị quyết số 12-NQ/TW
ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về
tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp, trong đó có nhiệm vụ, giải pháp: “Nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát của cơ quan quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong doanh
nghiệp nhà nước”.
Thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Chính phủ ban
hành Nghị quyết số 97/NQ-CP ngày
02/10/2017 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày
03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về tiếp
tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong các nhiệm vụ đề ra, Thanh tra
Chính phủ được giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng Đề
án “Nâng
cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, thanh tra nhằm phòng ngừa,
phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí
trong doanh nghiệp nhà nước” (Đề án). Thực hiện nhiệm vụ được giao, trong thời gian
qua Thanh tra Chính phủ đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng Đề án
gồm đại diện một số bộ, ngành, cơ quan Trung ương, DNNN.
Ngày 10/5/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
695/QĐ-TTg ban hành Đề án“Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm
tra, thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật,
tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước”.
1. Bối cảnh ban hành Đề án
Trong thời gian qua, bên cạnh những đóng góp của DNNN đối với sự
phát triển kinh tế – xã hội, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh
xã hội, hoạt động của DNNN đã xảy ra nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, đầu tư kém hiệu quả. Trong giai đoạn 2011 – 2016, Thanh tra Chính
phủ ban hành kết luận 19 cuộc thanh tra tại các DNNN, tập trung tại các Tập
đoàn, Tổng công ty nhà nước[1]. Sai phạm chủ yếu của
các DNNN thời gian qua được cơ quan thanh tra phát hiện, tập trung ở một số dạng: Sai về thủ tục đầu tư,
mua sắm tài sản không đúng quy định của Nhà nước; sai thẩm quyền; sai đối
tượng cho phép; hạch toán không đúng nguồn dẫn đến phản ánh kết quả sản
xuất, kinh doanh không đúng bản chất thực tế; trình độ quản lý doanh nghiệp
yếu kém dẫn đến vi phạm quản lý kinh tế và vi phạm pháp luật… cùng với
những yếu kém nội tại của DNNN, sự hạn chế trong công tác kiểm tra, giám
sát của các cơ quan chủ quản cũng là nguyên nhân dẫn đến các sai phạm
trong quản lý vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp.
Trong giai đoạn 2011 – 2016,
Kiểm toán Nhà nước đã tổ chức kiểm toán Báo cáo tài chính và các hoạt động
liên quan đến quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại 174 lượt Tập đoàn, TCT nhà
nước với 1.434 lượt doanh nghiệp được kiểm toán; kiểm toán kết quả tư vấn
định giá và xử lý các vấn đề tài chính trước khi chính thức công bố giá
trị doanh nghiệp cổ phần hóa của 17 doanh nghiệp; kiểm toán 09 chuyên đề[2]. Qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã
kiến nghị tăng thu ngân sách nhà nước 17.284 tỷ đồng; kiến nghị
điều chỉnh tăng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước 22.356 tỷ đồng; chuyển
09 hồ sơ có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra.
Nhiều vụ việc vi phạm pháp luật
nghiêm trọng đã được phát hiện và xử lý như: Vi phạm pháp luật trong thực hiện
13 dự án đầu tư trọng điểm của Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam trong giai
đoạn 2010 – 2015; vi phạm quy định về quản lý tài chính tại Tập đoàn Công
nghiệp tàu thuỷ Việt Nam Vinashin; vi phạm pháp luật trong hoạt động của Tập
đoàn Dầu khí và một số doanh nghiệp thành viên (các vụ án liên quan đến Trịnh
Xuân Thanh, Đinh La Thăng, Nguyễn Xuân Sơn…); vi phạm trong vụ Tổng công ty
Viễn thông Mobifone mua 95% cổ phần Công ty CP Nghe nhìn toàn cầu AVG…
Những hạn chế, bất cập trong hoạt động của DNNN xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân từ những hạn chế,
bất cập trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản
lý đối với DNNN. Hiện tại, theo các quy định pháp luật, cơ chế giám sát, kiểm
tra, thanh tra DNNN được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật như:
Luật doanh nghiệp 2020, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp 2014, Luật Thanh tra 2010, Nghị định số
49/2014/NĐ-CP ngày 20 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về giám sát, kiểm tra,
thanh tra đối với DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quy định
của chủ sỡ hữu; Nghị định số số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 của Chính
phủ về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, giám sát tài chính, đánh
giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước; Nghị định 115/2014/NĐ-CP ngày 03
tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chế độ giám sát, kiểm tra việc thực
hiện chiến lược, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ được giao của DNNN; Nghị
định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 về việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh
nghiệp và quản lý vốn, tài sản tại doanh nghiệp…
Theo các văn bản pháp luật trên, có nhiều chủ thể được giao thẩm
quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với DNNN, như: Cơ quan đại diện chủ sở
hữu (các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp, Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước), cơ quan thanh tra nhà
nước, các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, cơ quan
có thẩm quyền QLNN theo ngành, lĩnh vực… Hoạt động của DNNN còn chịu sự giám
sát của Quốc hội, hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.
Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN của các cơ quan chức
năng thời gian qua đã có đóng góp quan trọng vào việc hoàn thiện chính sách,
pháp luật, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quản lý đối với DNNN và phát hiện
nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực xảy ra trong
DNNN; các cơ quan chức năng đã kiến nghị thu hồi về cho Nhà nước hàng nghìn tỷ
đồng, hàng trăm ha đất và xử lý kỷ luật, xử lý hình sự nhiều đối tượng. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, “Hiệu lực, hiệu quả
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán của các cơ quan quản lý nhà
nước không cao. Tình trạng thực hiện chưa nghiêm túc chủ trương của Đảng, vi
phạm pháp luật, rủi ro, yếu kém, thua lỗ trong doanh nghiệp nhà nước không được
phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh[3].
Những hạn chế, yếu kém của công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra
của các cơ quan QLNN đối với DNNN thể hiện trên những phương diện cụ thể như
sau: (i) Hoạt động giám sát còn hình thức, chủ yếu thông qua các báo cáo định
kỳ (06 tháng, 01 năm), mức độ tương tác thấp, thiếu tính thường xuyên, liên
tục, không kịp thời nắm bắt được tình hình thực tế của doanh nghiệp nhất là
việc thực hiện kế hoạch, thực hiện các dự án đầu tư và các quyết định của chủ
sở hữu; (ii) Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN mới chỉ tập trung vào
việc phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật mà chưa chú trọng đúng mức vào
việc phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật; (iii) Số cuộc
thanh tra, kiểm tra, giám sát DNNN được thực hiện nhiều nhưng số lượng các vụ
việc, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được
phát hiện chưa tương xứng với tình hình thực tế. Các rủi ro trong hoạt động
quản lý, sản xuất, kinh doanh và các vi phạm, yếu kém không được phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm minh; (iv) Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra còn
chồng chéo, trùng lắp, gây khó khăn, cản trở tới hoạt động sản xuất, kinh doanh
của DNNN, chưa được tiến hành đồng bộ với các nội dung QLNN đối với doanh
nghiệp và hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của DNNN[4].
2. Nội dung cơ bản của Đề án
Mục tiêu của Đề án là nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu
quả giám sát, kiểm tra, thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi
vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước;
bảo đảm việc quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước tại doanh
nghiệp, góp phần nâng cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển
kinh tế – xã hội.
Trên cơ sở mục tiêu chung, Đề án đưa ra các mục tiêu cụ thể như
sau:
– Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, phạm vi, nội dung
giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước.
– Đổi mới phương thức giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với
doanh nghiệp nhà nước; tạo lập cơ chế phối hợp đồng bộ, thống nhất, bảo
đảm không trùng lặp, chồng chéo trong giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với
doanh nghiệp nhà nước. Bảo đảm 100% các cuộc thanh tra theo kế hoạch của các
cơ quan có chức năng thanh tra không bị trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội
dung, thời gian thanh tra.
– Kiện toàn tổ chức; nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tính chuyên nghiệp của các chủ thể có thẩm quyền
trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước. Bảo đảm
100% công chức trực tiếp giám sát doanh nghiệp nhà nước được đào tạo, bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức về quản trị doanh nghiệp, chính sách pháp luật có
liên quan.
– Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và
kịp thời phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm
quyền trong giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước. Bảo đảm 100%
báo cáo giám sát, kết luận kiểm tra, kết luận thanh tra được công khai trừ
những nội dung thuộc bí mật nhà nước.
– Nâng cao tính chính xác, khách quan, kịp thời, khả thi của các
kết luận, kiến nghị, quyết định từ hoạt động giám sát, kiểm tra,
thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước. Bảo đảm mọi kết luận, kiến
nghị, quyết định xử lý từ hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra được
thực hiện nghiêm túc.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, Đề án đưa ra 05 nhóm nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu tương ứng với 05 mục tiêu cụ thể. Các giải pháp cụ thể như sau:
a) Hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật:
– Hoàn thiện quy định về thẩm quyền, trách nhiệm giám sát, kiểm
tra, thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước theo hướng phân định rõ thẩm quyền
giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước.
Trong giải pháp hoàn thiện về thẩm quyền, trách nhiệm, Đề án đưa
ra định hướng chi tiết về nội dung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật
trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, cụ thể:
+ Rà soát, sửa đổi quy định về giám sát doanh nghiệp nhà nước theo
hướng quy định hoạt động giám sát doanh nghiệp nhà nước tập trung vào việc theo
dõi, tổng hợp, phân tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các
quyết định của chủ sở hữu do cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước tiến hành
thường xuyên, liên tục nhằm kịp thời nắm bắt, phản ánh, đánh giá, phát hiện yếu
kém, bất cập trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
+ Rà soát sửa đổi quy định về kiểm tra doanh nghiệp nhà nước
theo hướng quy định hoạt động kiểm tra doanh nghiệp nhà nước tập trung vào việc
xem xét, làm rõ việc tuân thủ pháp luật, tuân thủ quyết định của chủ sở hữu do
cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, cơ quan đại diện chủ sở hữu
tiến hành định kỳ, thường xuyên, theo kế hoạch, trên cơ sở kết quả giám
sát hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành
vi vi phạm pháp luật trong doanh nghiệp nhà nước.
+ Rà soát sửa đổi quy định về thanh tra doanh nghiệp nhà nước
theo hướng quy định hoạt động thanh tra doanh nghiệp nhà nước tập trung vào
việc xem xét, đánh giá, xử lý việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao,
việc chấp hành pháp luật do cơ quan có chức năng thanh tra tiến hành theo kế
hoạch hoặc đột xuất nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp
luật và phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong doanh
nghiệp nhà nước.
Đây là định hướng về nội dung quan trọng để các cơ quan có thẩm
quyền khi sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về giám sát, thanh tra, kiểm
tra có cơ sở để thực hiện. Vì qua rà soát các chính sách, pháp luật về giám
sát, kiểm tra, thanh tra hiện nay cho thấy còn có sự chưa thống nhất, rõ ràng
giữa các khái niệm về giám sát, kiểm tra, thanh tra trong các văn bản pháp
luật, đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự trùng lắp, chồng chéo trong
hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra hiện nay.
Bên cạnh đó, Đề án đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện quy
định về phạm vi, nội dung, phương thức giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với
doanh nghiệp nhà nước theo hướng:
+ Quy định chi tiết nội dung giám sát, kiểm tra doanh nghiệp
nhà nước, tập trung vào giám sát, kiểm tra việc tổ chức lại, chuyển
đổi sở hữu, giải thể, phá sản, chuyển giao doanh nghiệp nhà nước;
việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ được giao và hoạt động
tài chính, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; việc thực hiện quyền và trách
nhiệm của người đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
+ Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về phương thức giám
sát, kiểm tra, thanh tra phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước; bảo
đảm doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chịu sự giám sát, kiểm tra, thanh tra toàn
diện trong việc chấp hành các quy định của pháp luật và tuân thủ quyết định của
chủ sở hữu, doanh nghiệp có phần vốn nhà nước chịu sự giám sát, kiểm
tra, thanh tra với phạm vi, nội dung, phương thức phù hợp với yêu cầu quản lý
và thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về xây dựng kế hoạch, căn cứ tiến
hành kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện quy trình nghiệp vụ
giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước phù hợp với đối tượng, phạm
vi và nội dung giám sát, kiểm tra, thanh tra.
+ Quy định chi tiết về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền trong giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm xác
định rõ trách nhiệm của cơ quan làm đầu mối, điều phối hoạt động, chịu trách
nhiệm chung và cơ quan có trách nhiệm phối hợp.
Bên cạnh 2 nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện về thẩm quyền, nội dung,
phương thức nêu trên, Đề án còn đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện
các quy định về: Xử lý vi phạm của các chủ thể có thẩm quyền quản lý và giám
sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước; Hoàn thiện các quy định về công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước và trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh
nghiệp nhà nước; Sửa đổi, bổ sung quy định về việc tiếp nhận, xử lý thông tin,
phản ánh khiếu nại, tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham
nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước.
b) Tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền trong giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước.
Trách nhiệm và sự phối hợp giữa các chủ thể có thẩm quyền trong
hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra nhằm chia sẻ thông tin, hạn chế sự chồng
chéo, trùng lắp trong hoạt động giữa các cơ quan và phối hợp trong thực hiện
nhiệm vụ. Để thực hiện nhiệm vụ này, Đề án tập trung vào các nhiệm vụ, giải
pháp chính sau đây: Tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp giữa cơ quan có
thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra trong xây dựng kế hoạch kiểm tra,
thanh tra doanh nghiệp nhà nước; Tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp
giữa cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh
nghiệp nhà nước; Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền giám sát,
kiểm tra, thanh tra trong thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định từ hoạt
động giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước.
Trong từng nội dung phối hợp, Đề án quy định cụ thể về thẩm quyền,
trách nhiệm, trình tự thủ tục… để các chủ thể có thẩm quyền thực hiện việc
phối hợp với nhau trong xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra,
giám sát.
c) Kiện toàn tổ chức; nâng cao đạo đức công vụ, năng lực chuyên
môn và trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra
doanh nghiệp nhà nước.
Năng lực, trình độ của các chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt
động giám sát, thanh tra, kiểm tra còn nhiều hạn chế, yếu kém, tính chuyên
nghiệp chưa cao. Về nguyên tắc, để thực hiện nhiệm vụ giám sát, thanh tra, kiểm
tra đối với DNNN thì đòi hỏi năng lực, trình độ chuyên môn sâu về quản lý doanh
nghiệp, tài chính, pháp luật… Đội ngũ cán bộ này cần phải được đào tạo, bồi
dưỡng chuyên sâu về các chuyên ngành có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp; được cập nhật kiến thức và bồi dưỡng các kỹ năng thường
xuyên. Về nhiệm vụ, giải pháp này, Đề án quy định cụ thể như sau:
– Rà soát, sắp xếp hợp lý các tổ chức, đơn vị thực hiện nhiệm
vụ giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước; bố trí đội ngũ
công chức làm công tác tham mưu cho cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước
phải là những người có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có chuyên môn
nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực quản lý tài chính ngân sách, vốn,
đầu tư, doanh nghiệp; công khai rộng rãi điều kiện tiêu chuẩn, vị trí chức
danh, họ tên, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, chế độ đãi ngộ của
công chức được tuyển dụng, tiếp nhận, bố trí thực hiện nhiệm vụ giám sát trực
tiếp doanh nghiệp nhà nước.
– Bố trí công chức có chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm
công tác, am hiểu pháp luật về lĩnh vực quản lý tài chính ngân sách, vốn, đầu
tư, doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp
nhà nước.
– Tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức,
kỹ năng, nghiệp vụ về quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà
nước và công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra cho người đứng đầu cơ quan đại
diện chủ sở hữu nhà nước, công chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giám sát, kiểm
tra, thanh tra và người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp nhà
nước.
– Tăng cường đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các chủ
thể có thẩm quyền quản lý doanh nghiệp nhà nước, đại diện chủ sở hữu
nhà nước và giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước.
c) Thực hiện minh bạch, trách nhiệm giải trình và ứng dụng công
nghệ thông tin trong giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước
Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là các giải pháp
trọng tâm, quan trọng trong phòng, chống tham nhũng. Hoạt động của DNNN được
minh bạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể có thẩm quyền thực hiện
quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra. Trong khi đó, minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra giúp cho các hoạt động
này tăng cường tính liêm chính, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong chính
trong hoạt động của các cơ quan này. Trọng tâm của các giải pháp này tập trung
vào: Thực hiện minh bạch hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và hoạt động
giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước; Người đứng đầu cơ quan có
thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra có trách nhiệm giải trình trước thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp về: việc xây dựng kế hoạch; quá trình
tiến hành giám sát, kiểm tra, thanh tra; việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra kết
quả thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định từ hoạt động giám sát, kiểm tra,
thanh tra theo quy định của pháp luật. Trưởng đoàn, thành viên đoàn, cá
nhân được giao nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra có trách nhiệm giải trình về việc
thực hiện nhiệm vụ được giao với người ra quyết định kiểm tra, thanh tra;
Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra có trách
nhiệm giải trình về kết luận, kiến nghị, quyết định, hành vi của mình khi có yêu
cầu của doanh nghiệp nhà nước và các chủ thể có liên quan bị tác động bởi
kết luận, kiến nghị, quyết định, hành vi đó. Việc giải trình được thực hiện
theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Thủ trưởng cơ quan đại diện chủ sở hữu, thủ trưởng cơ quan có thẩm
quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra có trách nhiệm ứng dụng công nghệ thông tin
trong: Công khai thông tin về hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và hoạt
động giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước; Trong quá trình tiến
hành hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước; Xây dựng hệ
thống dữ liệu điện tử của cơ quan mình về giám sát, kiểm tra, thanh tra, phục
vụ việc khai thác, chia sẻ, kết nối, liên thông dữ liệu.
d) Phát huy vai trò của xã hội trong hoạt động giám sát, kiểm tra,
thanh tra doanh nghiệp nhà nước
Về trụ cột này, Đề án đưa ra 03 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể:
– Cơ quan đại diện chủ sở hữu, người đứng đầu các cơ quan có
thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra tổ chức đầu mối tiếp nhận các thông
tin, phản ánh, khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham
nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước.
– Kịp thời xử lý các thông tin, phản ánh, khiếu nại, tố cáo
về hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra
doanh nghiệp nhà nước và việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định từ hoạt
động giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước.
– Tăng cường đối thoại, chia sẻ thông tin giữa cơ quan đại
diện chủ sở hữu, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra doanh
nghiệp nhà nước với các tổ chức chính trị – xã hội, hiệp hội doanh nghiệp,
hiệp hội ngành nghề, cơ quan báo chí về những nội dung liên quan đến hoạt động
giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp nhà nước.
Về tổ chức thực hiện
Đề án, ngoài việc quy định các trách nhiệm của cơ quan chủ trì Đề án (Thanh tra
Chính phủ), các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chủ động hoàn thành việc ban hành kế hoạch cả giai đoạn 2021 –
2025 trong quý II năm 2021 và kế hoạch hàng năm từ tháng 12 năm trước để triển
khai thực hiện phù hợp với điều kiện thực tiễn, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm;
lồng ghép thực hiện Đề án với kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế –
xã hội của bộ, ngành, địa phương và kế hoạch sản xuất – kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước. Đề án còn đưa ra 15 nhiệm vụ cụ thể để thực hiện trong giai
đoạn 2021 – 2025.
ThS. Lê Văn Đức
Phó trưởng Phòng Thông tin
– Tư liệu – Thư viện
Viện Chiến lược và Khoa học
thanh tra
Nguồn: http://issi.gov.vn
[1] Báo cáo số 3222/BC-TTCP ngày 29/12/2017 của Thanh tra Chính
phủ gửi Đoàn giám sát Quốc hội và
báo cáo bổ sung tại công văn số 433/BC-TTCP ngày 28/3/2018 của Thanh tra Chính
phủ.
[2] Báo cáo số 01/BC-KTNN ngày 02/01/2018 của Kiểm toán Nhà nước gửi
Đoàn giám sát Quốc hội
[3] Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017
của Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 5, khóa XII
[4] Tờ trình của Thanh tra Chính
phủ về việc ban hành Đề án “Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả giám sát,
kiểm tra, thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp
luật, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước”
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bir hesabınız yoksa, gerekli bilgileri doldurarak Mostbet web sitesine kaydolabilirsiniz.
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn https://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)