Bảo đảm pháp lý để thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Bảo đảm pháp lý là các quy định của pháp luật về nguyên tắc, thể chế, thiết chế có liên quan đến việc thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng. Từ góc độ pháp lý, vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng là khả năng công dân trực tiếp thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình hoặc thông qua các tổ chức mà mình là thành viên tham gia phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng nhằm tạo ra sự tác động tích cực hơn trong nỗ lực chung đấu tranh phòng, chống tham nhũng của cả hệ thống chính trị.
Để công dân có thể phát huy được vai trò này của mình, bên cạnh các bảo đảm khác như yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội… thì bảo đảm pháp lý là nền tảng quan trọng không thể thiếu trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.
1. Cơ sở pháp lý để công dân thực hiện vai trò trong phòng, chống tham nhũng
Thể chế về vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng là hệ thống luật và các quy định khác do Nhà nước tạo ra nhằm xác lập cơ sở pháp lý để công dân trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để thực hiện vai trò trong phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng.
Về cấu trúc, thể chế về vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng được xác lập trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật như luật, nghị quyết, nghị định, thông tư của Nhà nước; trong quy tắc, quy chế hoạt động của các tổ chức mà công dân là thành viên được Nhà nước thừa nhận.
Về nội dung, thể chế về vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng bao gồm: Các quy định về nguyên tắc, phạm vi vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng; quy định về nội dung quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng; về phương thức thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng; về chế tài bảo đảm thực hiện và các điều kiện đảm bảo thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng.
Phát huy vai trò của một chủ thể sẽ không thể được bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật. Thông qua pháp luật, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền không chỉ tồn tại dưới dạng các quy tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả các chủ thể trong xã hội. Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân trong phòng, chống tham nhũng phải được thể chế hóa tương xứng. Theo đó, tính tích cực pháp luật của các chủ thể trong phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng mới được phát huy đầy đủ và loại bỏ được các yếu tố tiêu cực trong mối quan hệ giữa các chủ thể này.
Việc ghi nhận vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng thông qua các quy định pháp luật một mặt thể hiện rõ quan điểm, chủ trương nâng cao vai trò của xã hội cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện quyết tâm chống tham nhũng tới cùng với toàn bộ sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội; mặt khác, việc quy định rõ ràng, cụ thể cũng nhằm xác định rõ trách nhiệm của công dân trong việc cùng với Nhà nước hành động tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng dù tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nhưng cơ bản được thể hiện trên các nội dung sau: (i) tham gia xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng; (ii) chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng; (iii) tham gia giám sát, phát hiện, phản ánh, tố cáo hành vi tham nhũng; (iv) cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh vụ việc tham nhũng khi được yêu cầu; (v) lên án, đấu tranh thúc đẩy việc xử lý tham nhũng. Do đó, để đảm bảo thực hiện những vai trò này đòi hỏi không chỉ dừng lại ở việc thể chế hóa một cách hình thức mà còn đòi hỏi các khuôn khổ pháp lý cho vấn đề này cần đầy đủ và hoàn thiện ở mức cao nhất, không chỉ đáp ứng các yêu cầu về quản lý của nhà nước mà còn đảm bảo phù hợp với năng lực của các chủ thể, phát huy cao nhất những mặt mạnh, những lợi thế của xã hội nhằm kiểm soát quyền lực. Theo đó:
– Pháp luật về phòng, chống tham nhũng phải được xây dựng trên cơ sở có sự tham gia rộng rãi của nhân dân trong quá trình xây dựng dự thảo trước khi ban hành nhằm đảm bảo phát huy được quyền làm chủ của nhân dân. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy các quá trình xây dựng chính sách công phải diễn ra trong không gian mở với những điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của người dân, một cách trực tiếp hoặc ít nhất là gián tiếp thông qua vai trò của đại biểu dân cử.
– Pháp luật cần quy định rõ ràng, đầy đủ quyền giám sát của nhân dân thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Trong đó, quy chế dân chủ là cơ hội tốt, tạo điều kiện để nhân dân phát huy quyền dân chủ trực tiếp bàn bạc và quyết định những vấn đề liên quan đến đời sống, quyền, lợi ích của mình, có thông tin để giám sát những lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.
– Thủ tục điều kiện thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng được xác định là bảo đảm cho việc thực hiện các quy phạm nội dung. Tất nhiên, không phải khi nào thủ tục cũng là tốt vì trong cải cách hành chính hiện nay ở nước ta, một số thủ tục hành chính không cần thiết thì phải được loại bỏ để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong phòng, chống tham nhũng được dễ dàng, thuận lợi như quyền phản ánh, tố cáo tham nhũng. Nhưng, khi có sự hiện diện cần thiết của thủ tục thì khi đó, thủ tục cần phải được quy định theo các yêu cầu chặt chẽ để bảo đảm cho các quy định pháp luật (nội dung) được thực hiện tốt nhất, hiệu quả nhất. Trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới đều có quy định ít hoặc nhiều thủ tục pháp lý cho hoạt động của các cơ quan nhà nước có quan hệ trực tiếp hay gián tiếp đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Do vậy, trong hệ thống pháp luật, các thủ tục hành chính cũng như thủ tục tư pháp đều có vai trò rất lớn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đó của công dân trong phòng, chống tham nhũng.
– Quy định chế tài bảo đảm thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng bao gồm các chế tài hành chính, hình sự, kỷ luật hành chính… Chế tài với tính cách là công cụ cưỡng chế nhà nước áp dụng nhằm tạo ra hậu quả bất lợi đối với người vi phạm pháp luật và thể hiện sự phản ứng của nhà nước và xã hội. Qua chức năng trừng trị, giáo dục, phòng ngừa và khôi phục quan hệ xã hội bị vi phạm, chế tài bảo đảm cho việc thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng được thực hiện. Chế tài có thể được áp dụng bởi tòa án hay cơ quan hành chính nhà nước.
– Cơ sở pháp lý về minh bạch thông tin để công dân tiếp cận cần được hoàn thiện nhằm tạo hành lang cho người dân tiếp cận các thông tin cần thiết để phòng, chống tham nhũng. Trên thế giới, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được công nhận trong luật pháp quốc tế và nhiều nước đã ban hành luật liên quan đến nội dung này. Nếu như năm 1993 chỉ có 13 nước có Luật tiếp cận thông tin thì cho đến thời điểm này trên 80 quốc gia đã thông qua Luật này. Đánh giá kinh nghiệm của các nước trong việc thực hiện luật tiếp cận thông tin cho thấy nước nào quy định rõ ràng cơ chế và cơ quan chịu trách nhiệm giám sát thực hiện luật là những nước thành công nhất. In-đô-nê-xia, Thái Lan và Mê-hi-cô đều là những nước đang phát triển đã ban hành luật trong đó có các chương quy định cụ thể về cơ quan chịu trách nhiệm thi hành. Ở Mê-hi-cô, Viện Tiếp cận Thông tin Nhà nước Liên bang là một cơ quan độc lập có nhiệm vụ giám sát thi hành luật ở cấp quốc gia. In-đô-nê-xia hiện nay đang trong quá trình thành lập một Ủy ban Thông tin.
– Pháp luật cần tạo hành lang pháp lý cụ thể cho các cơ quan có trách nhiệm phải giải trình để đảm bảo công dân có điều kiện thực hiện vai trò của mình trong phòng, chống tham nhũng. Quy định về trách nhiệm giải trình phải đề cập đến các quy phạm mà buộc cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chịu trách nhiệm pháp lý đối với các hành động của mình và áp đặt các biện pháp trừng phạt nếu vi phạm. Ở các quốc gia phương Tây, có hai cách tiếp cận về trách nhiệm giải trình là cách tiếp cận ngang và cách tiếp cận dọc. Cách tiếp cận ngang có nghĩa là cơ quan nhà nước giám sát các hành động của cơ quan nhà nước. Cách tiếp cận dọc có nghĩa là công dân và xã hội sẽ giám sát các hoạt động của nhà nước. Như vậy, nhìn từ góc tiếp cận liên quan đến vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng thì quy định về trách nhiệm giải trình cần bảo đảm việc phân tích, tham vấn chính sách, pháp luật; vận động hành lang; cung cấp các quan điểm khác cho người dân, thực hiện việc giám sát thông qua vai trò của công dân và các tổ chức mà công dân là thành viên. Ngược lại, công dân và các tổ chức trong xã hội cần được bảo đảm có cơ sở pháp lý thực hiện việc thúc đẩy trách nhiệm giải trình từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
– Pháp luật phải tạo ra cơ sở pháp lý khuyến khích sự tham gia của công dân trong phòng, chống tham nhũng như quy định về tiếp nhận và xử lý tố cáo phù hợp và hiệu quả; bảo vệ người tố cáo; khen thưởng công dân có thành tích tiêu biểu trong việc phát hiện, đấu tranh về phòng, chống tham nhũng.
+ Về tiếp nhận và xử lý tố cáo: Pháp luật phải đảm bảo khuyến khích sự tham gia của công dân vào việc phát hiện và tố cáo hành vi tham nhũng bằng những biện pháp tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền và trách nhiệm một cách thuận lợi nhất. Một số quốc gia trên thế giới có những quy định cụ thể như thiết lập đường dây nóng, các hộp thư tố giác hay thành lập các văn phòng chuyên tiếp dân… để thu nhận tin tức tội phạm nói chung và tham nhũng nói riêng. Một số nước như Cô-lôm-bi-a, Bra-xin, Singapore, Trung Quốc, Thái Lan… chấp nhận và xem xét cả đơn thư tố cáo nặc danh nếu thấy có dấu hiệu tham nhũng. Singapore thậm chí còn yêu cầu các cơ quan chức năng phải xem xét cả các cuộc gọi tới tố cáo tham nhũng và phải ra quyết định có tiến hành điều tra hay không, nếu có phải điều tra ngay, không được để quá 4 ngày. Điều này được giải thích bởi trong thực tế phần lớn người dân không phải là những chuyên gia về tham nhũng hay những người có chuyên môn điều tra nên những trường hợp tham nhũng do dân tố giác thì không thể và không nên đòi hỏi phải có chứng cứ rõ ràng.
+ Về bảo vệ người tố cáo: Đi liền với việc khuyến khích người dân tố cáo hành vi tham nhũng thì cần phải đảm bảo cơ chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng. Người tố cáo tham nhũng thường phải đối mặt với sự đe dọa, trả thù, trù dập, mua chuộc của người bị tố cáo; trong khi đó, bản thân người tố cáo thường không hoặc khó có khả năng tự bảo vệ mình trước những nguy cơ như vậy. Do đó, cơ sở pháp lý là yếu tố tiên quyết hình thành cơ chế bảo vệ người tố cáo. Nếu không có quy định pháp luật, việc bảo vệ người tố cáo tham nhũng sẽ không thể thực hiện được. Pháp luật phải bảo đảm thừa nhận quyền được bảo vệ của người tố cáo; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc bảo vệ người tố cáo; thủ tục pháp lý và các biện pháp bảo đảm để người dân thực hiện quyền tố cáo của mình… Đó là lý do vì sao Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng đã ghi nhận bảo vệ người tố cáo là một yêu cầu quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng (Điều 13). Việc có những biện pháp bảo vệ hữu hiệu đối với người tố cáo sẽ khuyến khích và bảo đảm tố cáo tích cực, tránh được sự tác động tiêu cực từ phía người tố cáo làm cản trở hoặc sai lệch quá trình phát hiện, điều tra, xử lý hành vi tham nhũng. Hay như các nước đều có biện pháp bảo vệ người tố giác, như: giữ bí mật lời khai, chuyển chỗ ở cho họ để tránh bị phát hiện, trả thù (Cộng hoà liên bang Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Xingapo, Ôxtrâylia,…).
+ Về khen thưởng người tố cáo: Để động viên, khích lệ công dân dũng cảm tố giác hành vi tham nhũng, cần bảo đảm cơ chế tôn vinh, khen thưởng nhân rộng các điển hình phòng, chống tham nhũng. Pháp luật của một số quốc gia như Anh, Nam Phi, Ghana, Canada, Nhật Bản, Niu Di-lân, Hoa Kỳ… đã xác định rõ những hình thức khen thưởng những người đã dũng cảm tố cáo tham nhũng. Một số nước trên thế giới đã xây dựng cơ chế khen thưởng người tố cáo tham nhũng bằng vật chất khá hiệu quả. Ví dụ như Hàn Quốc, mặc dù không quy định việc khen thưởng cho người tố cáo hành vi tham nhũng nhưng Hàn Quốc quy định việc Nhà nước sẽ đền bù cho những thiệt hại mà người tố cáo có thể gặp phải do việc tố cáo đó với mức đền bù tính theo tỷ lệ % số tiền thu hồi được, tối đa có thể lên đến 2 tỷ Won (khoảng 40 tỷ đồng Việt Nam)…
Như vậy, để bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng, thông qua các quy định pháp luật, nhà nước không chỉ tuyên bố các quyền và nghĩa vụ cho công dân mà còn phải đưa ra các biện pháp để bảo vệ và bảo đảm cho chúng được thực hiện trên thực tế. Quy định này nếu không đầy đủ, chính xác, rạch ròi, đúng đắn thì dù có cơ chế thực hiện tốt đến đâu cũng không thể bảo đảm thực hiện.
2. Thiết chế thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Thiết chế là quy định pháp luật tổ chức và hoạt động của toàn bộ các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến quá trình thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng.
Một là, Đảng cầm quyền là chủ thể xây dựng nên cơ cấu tổ chức bộ máy và trực tiếp lãnh đạo nhà nước. Chủ trương, chính sách của Đảng tạo định hướng hành động để bảo đảm thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của Đảng là công cụ để ngăn ngừa và hạn chế công dân với tư cách đảng viên vi phạm điều lệ đảng, các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng. Đồng thời, để bảo đảm công dân thực hiện được vai trò của mình, thông qua công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, các tổ chức và cán bộ, công chức thuộc diện quản lý của Đảng sẽ phải giải trình các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm. Trong quá trình giám sát, phát hiện có vi phạm, phải được kết luận rõ ràng đúng sai và kiến nghị xử lý. Việc giám sát và xử lý sai phạm của Đảng bảo đảm công minh, khách quan thì cũng sẽ đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng nhân dân về mong muốn, nỗ lực phòng, chống tham nhũng.
Hai là, các cơ quan thực hiện chức năng chống tham nhũng.
Ở Việt Nam, trách nhiệm phòng, chống tham nhũng là của cả hệ thống chính trị. Các chủ thể trong hệ thống chính trị đều có vai trò cụ thể trong công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, các cơ quan thực hiện chức năng phòng, chống tham nhũng là những cơ quan, tổ chức được pháp luật hay các văn bản của Đảng quy định thực hiện những nhiệm vụ quan trọng và chủ yếu trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Các cơ quan đó có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm sự tham gia của công dân trong phòng, chống tham nhũng, bao gồm cả các tổ chức nằm trong hệ thống các cơ quan của Đảng[1]; các cơ quan có tổ chức, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng trong hệ thống cơ quan hành pháp[2] và trong hệ thống cơ quan tư pháp[3]. Thẩm quyền của các cơ quan trên liên quan đến thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng phải được quy định trong các văn bản pháp luật và bảo đảm hướng tới việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng một cách đúng đắn, khách quan.
Ba là, các tổ chức đại diện của công dân tại cơ sở.
Tại Việt Nam, các tổ chức đại diện cho công dân trong phòng, chống tham nhũng khá nhiều, trong đó tập trung vào một số chủ thể nhất định như Mặt trận Tổ quốc, Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Có thể nói đây là những tổ chức nòng cốt, có vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn nhiều tổ chức, đoàn thể xã hội, các tổ chức cộng đồng khác… cũng có vai trò quan trọng trong công tác này.
Phạm vi, mức độ trách nhiệm và hình thức thể hiện của các tổ chức đại diện cho tiếng nói công dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được quy định dựa trên bản chất chính trị, địa vị pháp lý và tầm ảnh hưởng của tổ chức đó. Quy định này phải tạo ra mối gắn kết chặt chẽ giữa việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể với việc thực hiện vai trò phòng, chống tham nhũng. Đó là căn cứ pháp lý vừa đảm bảo hoạt động của các chủ thể trong xã hội tuân thủ đúng mục tiêu chính trị đã đặt ra vừa đảm bảo phát huy tốt nhất vai trò của tổ chức đại diện cho công dân trong công tác này.
Về cơ bản, các tổ chức đại diện cho công dân khi tham gia phòng, chống tham nhũng chủ yếu là thông qua hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; phát hiện, phản ánh các hành vi tham nhũng… Với mỗi tổ chức lại có những điểm khác biệt, những lợi thế khác nhau trong công tác này:
– Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên có mạng lưới rộng khắp, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Do đó, Mặt trận Tổ quốc có lợi thế trong việc quy tụ và tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Đây chính là cơ sở, là lợi thế quan trọng để Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên tham gia có hiệu quả vào công tác phòng, chống tham nhũng thông qua các hình thức như thực hiện công tác giám sát đối với cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, công chức, đảng viên và phát hiện, tố cáo các hành vi tham nhũng.
– Ban thanh tra nhân dân có vai trò quan trọng trong việc thực hiện giám sát, phát hiện hành vi tham nhũng của các cán bộ, công chức và kiến nghị các cơ quan chức năng. Là một tổ chức của quần chúng, Ban thanh tra nhân dân có vai trò quan trọng trong giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần đấu tranh chống tham nhũng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Sự tham gia của Ban thanh tra nhân dân là cơ sở để thực hiện giám sát một cách toàn diện trên các mặt của đời sống xã hội, qua đó phát hiện những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực.
– Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng là chủ thể được thành lập nhằm mục đích giữ vai trò đại diện cho nhân dân trong xã, phường, thực hiện quyền giám sát các dự án đầu tư trên địa bàn xã, thay mặt nhân dân đưa ra các yêu cầu, kiến nghị, phản ánh đối với các vấn đề liên quan trong quá trình thực hiện quyền giám sát như: yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp các thông tin về quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng chi tiết các khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp… Sự tham gia của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng nếu được bảo đảm về mặt pháp lý và cơ chế hoạt động sẽ phát huy được hiệu quả trong giám sát, phát hiện các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng tại cơ sở.
Bốn là, các phương tiện truyền thông đại chúng.
Trách nhiệm của các phương tiện truyền thông luôn được nhấn mạnh là phải đảm bảo tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng; có trách nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng chính trị và tinh thần trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh phê phán các biểu hiện tiêu cực, lệch lạc khác….
Các phương tiện truyền thông phản ánh ý kiến của công dân thông qua các tin bài và xem xét, đánh giá, bình luận, có thể đồng tình hay không đồng tình ở mức độ khác nhau về các giai đoạn xây dựng chính sách, pháp luật, từ dự thảo đến khi ban hành và quá trình tổ chức thực hiện. Thông qua đó, phương tiện truyền thông là cầu nối cùng công dân kiểm chứng tính đúng đắn, tính tối ưu của sự phù hợp giữa chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng với thực tiễn cuộc sống.
Các phương tiện truyền thông cũng thu thập, đưa tin và cung cấp thông tin về các vụ việc tham nhũng đến với người dân. Xuất phát từ vị trí trong đời sống chính trị – xã hội; từ chức năng giám sát, phản biện xã hội và trách nhiệm chống các hiện tượng tiêu cực, phương tiện truyền thông đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện và đấu tranh chống những hành vi vi phạm trong hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là hiện tượng tham nhũng. Trên cơ sở những nguồn tin đáng tin cậy do bản thân nhà báo, cơ quan báo chí thu thập được hay được cung cấp từ chính người dân, từ các cơ quan chức năng, các phương tiện truyền thông vừa tham gia phát hiện và tạo nên dư luận mạnh mẽ, đòi hỏi các cơ quan trong bộ máy nhà nước phải có biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý tham nhũng.
Các phương tiện truyền thông còn khơi nguồn dư luận xã hội, phản ánh và truyền dẫn dư luận xã hội, định hướng dư luận xã hội bằng cách phát hiện và nhân rộng những điển hình, nhân tố mới, lấy cái tiên tiến, tích cực để đẩy lùi cái tiêu cực, lạc hậu; phê phán, đấu tranh không khoan nhượng với những thói hư tật xấu, những hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Phương tiện truyền thông không chỉ đơn thuần là đưa tin, phản ánh thụ động các sự kiện mà còn đóng vai trò ngày càng tích cực, tham gia trực tiếp vào các sự kiện như một trong những yếu tố, điều kiện thúc đẩy và quyết định chiều hướng vận động của các sự kiện bản chất thể hiện vai trò của các phương tiện truyền thông.
Ngoài ra, các phương tiện truyền thông cũng tạo diễn đàn để nhân dân thảo luận, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng. Giám sát xã hội của phương tiện truyền thông thực chất là giám sát bằng dư luận xã hội. Hoạt động thảo luận, giám sát luôn chứa đựng khả năng tạo ra một trường tương tác xã hội giữa 3 nhóm cộng đồng, đó là cộng đồng trí thức (phát hiện và lý giải vấn đề), cộng đồng truyền thông (phổ biến, chuyển tải thông tin) và cộng đồng xã hội (hưởng ứng thông tin và hình thành dư luận).
Thông qua diễn đàn báo chí, công chúng không chỉ tiếp nhận thông tin từ báo chí một cách thụ động, mà còn tương tác, phản hồi thông tin về các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng một cách mạnh mẽ. Người dân có thể phát biểu ý kiến, nguyện vọng của mình về các vấn đề trong đời sống xã hội, trong đó có tham nhũng, tiêu cực; qua đó, thể hiện sự giám sát và phản biện xã hội của mình. Bám sát sự kiện, thông tin nhanh nhạy, phân tích trúng vấn đề trọng điểm và định hướng tư tưởng, hướng dẫn dư luận rõ ràng, các cơ quan thông tấn, báo chí cần thực hiện tốt chức năng phản biện, mang lại hiệu quả xã hội trong phòng, chống tham nhũng.
Như vậy, để tạo cơ chế pháp lý cơ bản, hiệu quả nhất bảo đảm thực hiện vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng thì tổng thể các nguyên tắc, thể chế, thiết chế trên đây phải được gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống do pháp luật quy định nhằm xác lập các quyền và khả năng để công dân trực tiếp thực hiện hoặc thông qua tổ chức đại diện tạo ra sự tác động tích cực hơn trong nỗ lực chung về phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng./.
ThS. Tạ Thu Thủy
Viện Khoa học Thanh tra
Nguồn: http://giri.ac.vn
[1] Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Ban Nội chính Trung ương và Ban Nội chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
[2] Cục Chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và tham nhũng trực thuộc Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an; ở cấp tỉnh có Phòng Thanh tra phòng, chống tham nhũng thuộc Thanh tra tỉnh; Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về kinh tế, chức vụ, tham nhũng thuộc Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ thuộc Công an tỉnh.
[3] Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng, chức vụ; Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp – thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; tòa án nhân dân được giao thẩm quyền xét xử, trong đó có thẩm quyền xét xử đối với các vụ án tham nhũng.
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn http://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)