Luật Thanh tra năm 2010 và các Nghị định quy định và hướng dẫn thi hành đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Người ra quyết định và Trưởng đoàn thanh tra. Ngày 01/10/2021 Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư số 06/2021/TT-TTCP “Quy định về tổ chức, hoạt động của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra”, quy định mới về trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra… cụ thể là:
1. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra
Nhiệm vụ, quyền hạn của Người ra quyết định thanh tra hành chính, Điều 48 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “… Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung quyết định thanh tra;… Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra; Đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra…; Kết luận về nội dung thanh tra; Chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra khi phát hiện có dấu hiệu của tội phạm…”
Nhiệm vụ, quyền hạn của Người ra quyết định thanh tra chuyên ngành, Điều 55 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “… Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung quyết định thanh tra;… Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra; Đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra…; Kết luận về nội dung thanh tra; Chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra khi phát hiện có dấu hiệu của tội phạm”.
Điều 5 Thông tư số 06/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ quy định trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra: “Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo Đoàn thanh tra, bảo đảm nguyên tắc của hoạt động thanh tra, bảo đảm cuộc thanh tra được thực hiện đúng pháp luật, đúng mục đích, yêu cầu; giải quyết kịp thời các phản ánh, kiến nghị của Đoàn thanh tra; các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, liên quan đến hoạt động của Đoàn thanh tra”.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra
Nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra hành chính, Điều 46 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “… Kiến nghị với Người ra quyết định thanh tra áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Người ra quyết định thanh tra quy định tại Điều 48 của Luật Thanh tra năm 2010… Báo cáo với Người ra quyết định thanh tra về kết quả thanh tra và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của báo cáo đó….”.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành, Điều 53 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “… Kiến nghị với Người ra quyết định thanh tra áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Người ra quyết định thanh tra quy định tại Điều 55 của Luật Thanh tra năm 2010… Báo cáo với Người ra quyết định thanh tra về kết quả thanh tra và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của báo cáo đó…”.
Điều 5 Thông tư số 06/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ quy định trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra: “Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các thành viên Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung, tiến độ thanh tra theo Quyết định thanh tra và kế hoạch tiến hành thanh tra; thực hiện chế độ thông tin, báo cáo theo yêu cầu của Người ra quyết định thanh tra; chịu trách nhiệm trước Người ra quyết định thanh tra về hoạt động của Đoàn thanh tra”.
Điều 16 Thông tư số 06/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ quy định trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra trong việc xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra: “Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm chủ trì xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra… Trưởng đoàn thanh tra trình Người ra quyết định thanh tra phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra”.
Và hàng loạt các quy định khác mà pháp luật về thanh tra đã quy định về trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra.
Tuy nhiên thực tiễn hiện nay việc thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra và của Trưởng đoàn thanh tra đang bị hiểu sai lệch, vin vào các lý do khác nhau như: số lượng cán bộ thanh tra ít, phải tổ chức nhiều Đoàn thanh tra đan xen nhau, yêu cầu cấp thiết của công tác thanh tra, tạo thuận lợi cho đối tượng thanh tra… và từ đó không ít các trường hợp Chánh Thanh tra (cấp huyện, sở), Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (Chi cục) đã ký ban hành các quyết định thanh tra đồng thời là Trưởng đoàn thanh tra. Với các quyết định thanh tra như vậy có đúng quy định của pháp luật không? Chúng ta cùng trao đổi với các nội dung:
Thứ nhất, khi Đoàn thanh tra thực hiện nhiệm vụ thì nhiệm vụ, quyền hạn của Người ra quyết định thanh tra và Trưởng đoàn thanh tra dồn thành một “tích hợp”, không thể tách bạch khi nào là Người ra quyết định thanh tra, khi nào là Trưởng đoàn thanh tra, trong khi đó theo quy định của pháp luật về thanh tra đã nêu ở trên trước hết với công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát Đoàn thanh tra ai sẽ thực hiện? Trưởng đoàn thanh tra vừa chỉ đạo, kiểm tra, giám sát Đoàn thanh tra với vai trò Người ra quyết định thanh tra, vừa thực hiện điều hành, quản lý Đoàn thanh tra với vai trò là Trưởng đoàn. Như vậy sẽ rơi vào tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Tiếp đến khi Đoàn thanh tra thực hiện nhiệm vụ, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm chủ trì xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra và trình Người ra quyết định thanh tra phê duyệt, trong khi đó Người ra quyết định thanh tra và Trưởng đoàn thanh tra là một người thì người ký lập kế hoạch, vừa ký người phê duyệt hay sao, lại rơi vào tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Còn khi kết thúc việc thanh tra trực tiếp Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện Báo cáo kết quả thanh tra gửi Người ra quyết định thanh tra, như vậy thì Trưởng đoàn thanh tra xây dựng, hoàn thiện Báo cáo kết quả thanh tra xong thì lại gửi chính mình hay sao? Lại rơi vào tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Nếu có việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, liên quan đến Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra thì người có thẩm quyền giải quyết là ai? Không thể là Người ra quyết định thanh tra được vì người đó lại chính là Trưởng đoàn thanh tra vì đã “tích hợp” là một. Và còn rất nhiều các công việc, nhất là Dự thảo Kết luận thanh tra, thẩm định Kết luận thanh tra (nếu cần), công khai kết luận thanh tra, thực hiện kết luận thanh tra… sẽ thực hiện thế nào.
Thứ hai, từ các quy định nêu trên cho thấy, trong quá trình thanh tra Người ra quyết định thanh tra và Trưởng đoàn thanh tra là 2 chủ thể khác nhau, có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm khác nhau, cụ thể là:
– Người ra quyết định thanh tra: chỉ đạo Trưởng đoàn thanh tra thực hiện các nội dung thanh tra, giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thanh tra theo đề xuất của Trưởng đoàn thanh tra, xem xét và ký kết luận thanh tra…
– Trưởng đoàn thanh tra: quản lý, điều hành Đoàn thanh tra, chịu sự kiểm tra, giám sát của Người ra quyết định thanh tra, nếu có những vấn đề vượt quá quyền hạn thì báo cáo Người ra quyết định thanh tra, ký Báo cáo kết quả thanh tra gửi Người ra quyết định thanh tra, chủ trì xây dựng Dự thảo Kết luận thanh tra (khi được giao)…
Từ các nội dung trên cho thấy,với bất kỳ lý do gì thì việc “tích hợp” giữa Người ra quyết định thanh tra đồng thời là Trưởng đoàn thanh tra là hiểu sai lệch không đúng theo quy định của pháp luật.
Lê Ngọc Thiều
Trưởng khoa, Khoa Nghiệp vụ Thanh tra
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bir hesabınız yoksa, gerekli bilgileri doldurarak Mostbet web sitesine kaydolabilirsiniz.
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn https://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)