1. Khái quát Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đó là truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất; tinh thần cần cù, chịu khó, nhân nghĩa và ý thức cố kết cộng đồng; ý chí vượt khó; quý trọng hiền tài. Cùng với đó là sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây trên nền tảng những tri thức được chắt lọc, hấp thụ, tích lũy qua thực tiễn, mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, với thiên tài của mình và khác với những nhà yêu nước tiền bối, Hồ Chí Minh đã nắm lấy tinh thần, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin để vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong quá trình xây dựng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người; phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại; đề cao giá trị nhân văn, đạo đức; soi sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam.
Trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Người, để từ đó hoàn thiện một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Về đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng…
Di sản Hồ Chí Minh là một tổng thể thực tiễn và lý luận, bao gồm toàn bộ cuộc đời sinh động, sự nghiệp vĩ đại, tư tưởng tiến bộ, đạo đức sáng ngời, phong cách giản dị, cao quý của Người. Di sản mà Người để lại mang tính phổ quát, vượt thời đại và còn nguyên tính thời sự. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng ta xây dựng đường lối đúng đắn, tổ chức lực lượng cách mạng và lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng hành cùng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh đang tiếp tục soi đường cho Đảng, nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là hoạt động kiểm soát quyền lực nhằm về phòng, chống tham nhũng trong bối cảnh hiện nay.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng
Tham nhũng là vấn đề của lịch sử, từ thời phong kiến đã được nhắc đến với những tên gọi khác nhau, nhưng bản chất hay nội hàm của nó đều là vấn đề vi phạm pháp luật để tư lợi cá nhân. Từ thời Lý Thánh Tông tội tham nhũng được luật pháp đặc biệt quan tâm và có những chế tài nghiêm khắc, đó là: “Những người thu quá số thuế quy định sẽ bị ghép vào tội ăn trộm. Người dân tố cáo việc đó được miễn dịch 03 năm. Người ở kinh thành mà cáo giác nạn nhũng nhiễu, tham ô thì nhận thưởng bằng hiện vật thu được”[1]. Của hối lộ một phần trả lại chủ, một phần sung vào kho quỹ triều đình. Như vậy, luật pháp không chỉ quy định về nạn nhũng nhiễu, tham ô, mà còn khuyến khích bằng phần thưởng là hiện vật đối với người tố giác nạn tham nhũng. Điều đó cũng có thể được coi là một trong những biện pháp đấu tranh với tham nhũng thời đó.
Đến thời nhà Trần, pháp luật được tăng cường và hoàn thiện hơn triều nhà Lý. Việc tuyển chọn quan lại được đề cao tiêu chuẩn về thanh liêm, thẳng thắn, do đó việc tư lợi, ăn đút lót bị xử nặng. Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có ghi việc Trần Phẩu bị tội lăng trì vì ăn đút lót 100 lạng vàng và vu cáo Quốc Chẩn làm phản[2]. Đến Triều Lê, việc chống tham nhũng rất được coi trọng. Trong Bộ luật Hồng Đức có 722 điều, thì có trên 40 điều liên quan việc phòng, chống tham nhũng, hình phạt nặng nhất là tử hình bằng cách chết thắt cổ, chém cổ, hoặc xử trảm bêu đầu. Đến triều Nguyễn, nổi bật là việc xây dựng và thực thi bộ luật Gia Long năm 1815. Luật Gia Long có 17 quyển quy định riêng về Luật hình đối với tội nhận hối lộ (đút lót) và gần 20 điều khoản quy định cụ thể về vấn đề này…
Sinh thời Chủ tịch Hồ chí Minh chưa dùng từ tham nhũng, nhưng những nội dung mà Người nói về tham ô, chống tham ô, cơ bản là tinh thần nói về tham nhũng và chống tham nhũng ngày nay. Tham ô là hành động nguy hại nhất trong các hành vi tham nhũng. Trả lời câu hỏi: Tham ô là gì? Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”[3] “Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư”[4].
Người chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân”, là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính. Hơn nữa, tham ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù nguy hiểm. Vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng”. Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”.
Bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra tham nhũng. Thực tế chứng tỏ rằng, ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó có tham nhũng, nơi nào bệnh quan liêu càng nặng, nơi đó càng nhiều tham nhũng. Muốn triệt để chống tham nhũng thì phải kiên quyết chống nguồn gốc của nó là bệnh quan liêu. Chống nạn tham nhũng cần đi đôi với chống tệ quan liêu.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tất cả là tài sản của nhân dân. Nhân dân đóng góp mồ hôi, xương máu, tiền công cho công cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước. Vì vậy, bảo vệ của công, chống tham ô, lãng phí là bảo vệ tài sản của nhân dân, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”[5]. Dân chủ tức là nhân dân làm chủ, cán bộ là người được giao quản lý tài sản để thực hiện các nhiệm vụ do nhân dân giao phó. Vì vậy, nhân dân có quyền giám sát, phê bình cán bộ, đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, tham ô, lãng phí.
Nhân dân là nhân tố chính yếu quyết định thắng lợi trong chống quan liêu, tham nhũng. Hồ Chí Minh cho rằng, có tham ô vì có quan liêu, và nêu rõ nguyên nhân chủ yếu của bệnh quan liêu là do cán bộ, đảng viên không coi trọng nhân dân. Người chỉ rõ: Cách chữa bệnh quan liêu phải từ cái gốc nhận thức tư tưởng, từ tư cách đạo đức của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, biết liên hệ chặt chẽ với nhân dân, việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Cán bộ, đảng viên có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình, sẵn sàng học hỏi nhân dân. Cán bộ, đảng viên không phải là quan cách mạng, họ phải làm gương mẫu, cần kiệm, liêm, chính để nhân dân noi theo, phải tự mình sửa chữa bằng cách thực sự lấy dân làm gốc, đi đúng đường lối quần chúng.
Hơn nữa Đảng, Nhà nước phải dựa vào quần chúng nhân dân là nơi có “trăm tai, nghìn mắt” để giám sát cán bộ, đảng viên, mở rộng dân chủ, để nhân dân có thể tham gia một cách tích cực nhất vào cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thì cuộc đấu tranh này mới có thể thành công.
Người chỉ rõ: “Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”[6], việc “chống này phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”.[7]
Trong cuốn “Đường Kách mệnh” năm 1927, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh “phải cần, kiệm, nói thì phải làm, phải biết hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất”. Như vậy, lòng tham muốn về vật chất ở đây cũng được hiểu nó là cội nguồn, gốc rễ của vấn đề tham nhũng. Theo tư tưởng của Người, tham nhũng, lãng phí chính là “giặc nội xâm”, là “quốc nạn”. Người chỉ rõ bản chất của hành vi tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận tham lam, là trộm cướp, thậm chí là tội ác. Trong bài nói chuyện năm 1952 về “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Hồ Chủ tịch có nói “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là ăn cắp của công làm của tư; đục khoét của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình…” , “Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”.
Nhớ lại vụ án Trần Dụ Châu diễn năm 1950. Tại Chiến khu Việt Bắc vào ngày 05/9/1950, một phiên tòa đặc biệt đã diễn ra, gây chấn động dư luận xã hội lúc bấy giờ. Trần Dụ Châu, nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ và làm nhiều điều bỉ ổi. Đây được coi là vụ án điển hình về tham nhũng, cũng được xử làm điểm để răn đe. Trong khi nhân dân, chiến sĩ còn gặp muôn vàn khổ cực kháng chiến chống giặc, thương binh thì thiếu thuốc men, bông băng thì Đại tá Trần Dụ Châu đã thực hiện ăn cắp công quỹ, nhận hối lộ, phá họai công cuộc kháng chiến. Tại phiên tòa, Trần Dụ Châu đã cúi đầu nhận tội, Tòa án binh tối cao tuyên phạt án tử hình, đồng thời bị tước quân hàm Đại tá theo công lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trần Dụ Châu đã gửi đơn lên Hồ Chủ tịch xin tha tội chết. Người đã cân nhắc rất kỹ và quyết định bác đơn xin giảm tội của Trần Dụ Châu và dứt khoát nói: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy hiểm” và “nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”[8].
Tạp chí Học tập số ra tháng 12/1958, Bác đã viết bài “Đạo đức cách mạng”, trong đó, Bác chỉ ra 03 kẻ địch nguy hiểm của cách mạng: kẻ địch nguy hiểm thứ nhất là chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc. Thói quen và truyền thống lạc hậu là kẻ địch thứ hai; chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch thứ ba. Trong chủ nghĩa cá nhân, tư lợi, tham ô, lãng phí là rất nguy hại. Trong bài nói chuyện tại Đại hội III Đoàn thanh niên Việt Nam ngày 24/3/1961, Bác lại nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. “Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội”[9]. Người khẳng định, chủ nghĩa cá nhân là bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con nguy hiểm; một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm khác. Trong số những căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra, tham nhũng là căn bệnh nguy hiểm nhất, là “hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất”[10]. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trộm cắp tiền bạc của Nhân dân, tổn hại kinh tế của Chính phủ, cũng là mật thám, phản quốc, nếu không phải là tệ hơn nữa”[11].
Nói chuyện với cán bộ và nhân dân Hà Bắc ngày 17/10/1963, Người kêu gọi: “… Phải chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Phải chấm dứt những tệ nạn xấu xa do xã hội cũ để lại, như lười biếng, cờ bạc, buôn gian bán lậu, tiêu sài xa xỉ, gả bán, cưỡng ép… Để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, đồng bào các dân tộc phải nâng cao ý thức làm chủ và tinh thần cần kiệm xây dựng nước nhà. Nhân kỷ niệm Ngày thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/1969), Bác viết bài báo “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Bác chỉ rõ: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa”. Đồng thời, Bác nhấn mạnh “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt”.
Hồ Chí Minh hết sức coi trọng ý kiến của quần chúng nhân dân và dư luận xã hội trong công tác lãnh đạo, quản lý xã hội, đất nước, “phải dựa vào lực lượng của quần chúng, phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, phải thật sự mở rộng dân chủ. Nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”.[12]. Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. “Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, làm cho nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành”[13].
Trong đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chí Minh coi trọng biện pháp lãnh đạo, phát động tư tưởng của quần chúng, tạo thành dư luận xã hội rộng lớn, khinh ghét, lên án những kẻ quan liêu, tham ô, giám sát hành động của các cán bộ, đảng viên, khiến cho những hành vi quan liêu, tham ô không có cơ hội hoành hành. Người nói: “Chúng ta phải phát động tư tưởng của quần chúng làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng vạn, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”[14]. Chính Người cũng đã nhắc nhở: “Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng mới thành công”[15].
Để tạo thành dư luận xã hội mạnh mẽ, rộng rãi, có định hướng, Hồ Chí Minh rất chú trọng vai trò của báo chí, Người đã viết nhiều bài, trong đó có những bài trở thành mẫu mực về nội dung và nghệ thuật chống bệnh quan liêu, tham nhũng. Người cũng đã phê bình báo chí còn rụt rè, chưa dũng cảm trong cuộc chiến đấu chống lại tệ tham nhũng, quan liêu, và yêu cầu các cơ quan bị báo chí phê bình phải trả lời, phải tự phê bình trước nhân dân. Người nêu rõ: “Gần đây, nhân dân và báo chí đã bắt đầu (tuy còn e dè, thưa thớt) phê bình. Song những tổ chức hoặc cơ quan bị phê bình thì im lìm, không đăng báo tự phê bình, không tìm cách sửa chữa. Đó là thái độ “bưng mắt, bắt chim”, thái độ “giấu bệnh sợ thuốc, một thái độ không thật thà, không đứng đắn. Mong những ai, những cơ quan nào đã được nhân dân hoặc báo chí phê bình, thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, trên báo chí”[16].
Bên cạnh báo chí, quần chúng nhân dân là lực lượng chính của cách mạng, sự tham gia tích cực của quần chúng quyết định sự thành bại của cách mạng. Hồ Chủ tịch đặc biệt chú trọng biện pháp phát động tư tưởng của quần chúng, Người nói: “làm cho quần chúng khinh ghét tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”[17]. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, sự giám sát gắt gao của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, công chức nhà nước, thông qua các hình thức khác nhau là một cơ chế ngăn ngừa tham ô, lãng phí hữu hiệu.
Như vậy, có thể thấy tư tưởng của Người về tham nhũng, nó không những được coi như tội ác mà còn là kẻ thù của nhân dân. Tham nhũng cũng giống như một căn bệnh trầm kha cần phải chữa trị một cách triệt để. Với tư tưởng của Người, Đảng cách mạng đã coi như kim chỉ nam cho hành động phòng, chống tham nhũng cho đến ngày nay. Phòng, chống tham nhũng được Đảng, Nhà nước ta coi là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài.
Khi nói về vấn đề chống tham nhũng, tại Lễ kỷ niệm 113 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí minh tổ chức tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã nói: “Chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng và lạm quyền của các đảng viên và cán bộ, công chức đang là mối đe doạ đối với Đảng, đối với đất nước; nếu hệ thống chính trị của chúng ta còn tồn tại những con người như vậy thì nền kinh tế sẽ bị đẩy lùi, tài sản của Nhà nước, của nhân dân bị chiếm đoạt, phá hoại tình đoàn kết và quan trọng nhất là làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng ta đã xác định cần tiếp thu tinh thần, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đấu tranh phòng, chống tệ tham nhũng, quan liêu, để mọi hành vi vi phạm của cán bộ, công chức dù ở vị trí nào đi chăng nữa cũng đều phải bị xử lý nghiêm minh”[18].
Tham nhũng có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng ở góc độ lý luận thì tham nhũng là hành động cố tình không tuân thủ các nguyên tắc minh bạch hóa nhằm trục lợi cho cá nhân hoặc cho những kẻ có liên quan đến hành động đó. Về góc độ pháp lý thì tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để vụ lợi. Một cách hiểu khác về tham nhũng được Ngân hàng thế giới sử dụng là “lạm dụng công quyền để mưu lợi riêng”[19].
Kế thừa những tư tưởng về phòng, chống tham nhũng từ lịch sử, hiện nay, pháp luật Việt Nam có định nghĩa khá rõ ràng về tham nhũng. Theo đó, tại khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Cũng theo khoản 2 Điều 3 của Luật này, thì người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Như vậy, có thể thấy, căn nguyên để tham nhũng chính là xuất phát từ công vụ và lạm dụng công quyền. Tham nhũng gắn liền với nhà nước và các hoạt động của nhà nước. Nếu xóa bỏ được nhà nước thì có thể xóa bỏ triệt để được tham nhũng. Cũng chính vì vậy, đấu tranh chống tham nhũng sẽ còn là cuộc đấu tranh thường xuyên, lâu dài, phức tạp và là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Không chỉ ở Việt Nam, tham nhũng được coi là bệnh nan y của cả nước phát triển và nước đang phát triển. Tuy nhiên, ở các nước khác nhau, mức độ là khác nhau. Ngày nay, ở nhiều quốc gia đang phát triển và chậm phát triển, tham nhũng được coi là rào cản khó khăn nhất đối với việc xóa đói, giảm nghèo và được coi là cản trở lớn nhất trong phát triển kinh tế, xã hội. Vì thế, đấu tranh phòng, chống tham nhũng được coi là mối quan tâm chung của nhiều quốc gia.
Từ năm 2013 đến nay, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành hơn 200 văn bản về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội ban hành hơn 250 luật, pháp lệnh, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hơn 2.600 nghị định, quyết định, chỉ thị; cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương ban hành hơn 45.000 văn bản; các Bộ, ngành, địa phương ban hành gần 88.000 văn bản để cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng. Đặc biệt là qua tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, chúng ta đã xây dựng được Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 với nhiều biện pháp mới, khắc phục những hạn chế thời gian qua và tạo cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới[20]. Với hệ thống văn bản pháp luật này, có thể khẳng định, cho đến nay các chủ trương, quy định của Đảng, các văn bản pháp luật về phòng, chống tham của nước ta cơ bản đã đầy đủ để tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác tác phòng, chống tham nhũng; sự thiếu hụt dẫn đến hiệu quả tác phòng, chống tham nhũng chưa cao chủ yếu là ở khâu tổ chức thực hiện.
Nhìn chung, qua kết quả xây dựng thể chế, chính sách nêu trên đã đề ra được những chủ trương, giải pháp, quy định mới, mạnh mẽ, quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoàn thiện thể chế về kinh tế – xã hội và phòng, chống tham nhũng. Nhiều quy định, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi vào cuộc sống, khắc phục một bước những sơ hở, bất cập làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Đặc biệt là các kinh nghiệm tốt của thế giới về phòng, chống tham nhũng được thể chế hóa trong Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng cũng đã được nội luật hóa cơ bản đầy đủ trong pháp luật của Việt Nam về phòng, chống tham nhũng. Do đó, có thể khẳng định, cho đến nay các chủ trương, quy định của Đảng, các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng của chúng ta cơ bản đã đầy đủ để tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng; sự thiếu hụt dẫn đến hiệu quả phòng, chống tham nhũng chưa cao chủ yếu là ở khâu tổ chức thực hiện.
3. Tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền lực và kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng
3.1. Nhận thức về quyền lực
Quyền lực được xem là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình. Quyền lực sinh ra từ nhu cầu tổ chức hoạt động chung, nhu cầu phân công lao động xã hội và quản lí xã hội. Quyền lực là điều kiện và phương tiện cần thiết khách quan bảo đảm sự hoạt động bình thường của bất kì cộng đồng xã hội nào. Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thống trị và bị trị thì quyền lực của giai cấp thống trị xuất hiện và quyền lực của giai cấp thống trị lại chỉ tập trung vào một nhóm người hay thậm chí một người được giao quyền thay mặt cho giai cấp thống trị để cai quản, quản lý, điều hành xã hội, thống trị những người bị thống trị. Quyền lực trong các xã hội có giai cấp thống trị và bị thống trị là nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, thậm chí bảo vệ lợi ích của một nhóm người hoặc một người được giao quyền thống trị, cai quản, quản lý, điều hành xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay như ở nước ta đang trong thời thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Nhưng Nhân dân chỉ trực tiếp thực hiện một số quyền lực nhất định như quyền ứng cử, bầu cử, thực hiện các quyền sống, quyền tự do, dân chủ, quyền học hành, đi lại…, còn những quyền chung như: quyền huy động, phân bổ mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quyền quản lý, điều hành xã hội; quyền quản lý phát triển kinh tế, quản lý phát triển văn hóa; quyền quản lý, điều hành thống nhất sự nghiệp an ninh, quốc phòng,… thì Nhân dân trao cho các cơ quan, tổ chức do Nhân dân lập lên, bầu lên, thậm chí Nhân dân trao quyền cho một nhóm, thậm chí trao cho một cá nhân đại diện Nhân dân thực hiện. Các tổ chức, các nhóm người, các cá nhân được Nhân dân trao quyền lực mà thực hiện đúng, thực hiện tốt, thực hiện có hiệu quả những chức trách, nhiệm vụ được giao, vì dân vì nước thì đem lại nhiều lợi ích cho Nhân dân, cho đất nước.
Nhưng khi quyền lực của tổ chức, của nhóm người, thậm chí của một người, khi đã được Nhân dân trao cho rồi thì rất dễ bị tha hóa. Tha hóa là sự làm biến chất thành xấu đi hoặc thành cái khác đối nghịch lại. Tha hóa quyền lực là việc thực hiện không đúng, không đầy đủ, không hết hoặc vượt quá quyền lực được trao trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, như: lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, không thực hiện hay thực hiện không hết quyền lực được trao. Có sự tha hóa quyền lực của cả một tổ chức, của cả một nhóm người, thậm chí của một cá nhân. Tổ chức, nhóm người hay cá nhân khi được Nhân dân trao quyền, đã không thực hiện đúng quyền lực được trao, mà lại thực hiện không đúng, thực hiện sai lệch quyền được trao dẫn đến tha hóa quyền lực. Xã hội càng văn minh thì sự tha hóa quyền lực càng tinh vi. Khi quyền lực Nhân dân trao cho tổ chức, cho nhóm người, cho cá nhân bị tha hóa thì cần phải có sự kiểm soát quyền lực. Quyền lực bị tha hóa mà không bị kiểm soát thì sẽ gây nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội, cho Nhân dân. Trao quyền lực, thực thi quyền lực cũng đồng thời với việc phải kiểm soát quyền lực.
3.2. Kiểm soát quyền lực nhằm phòng chống tham nhũng
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, công tác xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, trong đó có vấn đề kiểm soát quyền lực luôn luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng. Đặc biệt, từ sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề kiểm soát quyền lực nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, bảo đảm cho sự bền vững của chế độ và sự thắng lợi của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội càng được chú trọng hơn, bắt đầu từ nhận thức về sự cần thiết, ý nghĩa, yêu cầu và phương pháp, cách tiếp cận vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị.
Tháng 2-1947, chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ mới trải qua hơn một năm trong khi đất nước ngổn ngang những khó khăn, thiếu thốn, phức tạp. Ngay từ thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo và phê bình nghiêm khắc tình trạng “quân phiệt quan liêu”, “óc địa vị”, “tính kiêu ngạo” trong hàng ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước ở một số địa phương. Trong hai bức thư gửi các đồng chí Bắc Bộ và gửi các đồng chí Trung Bộ, Người thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, những biểu hiện tiêu cực trong hàng ngũ cán bộ. Đó là tình trạng: “Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe. Đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới thì cậy quyền lấn áp. Đối với quần chúng ra vẻ quan cách làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc “ông tướng, bà tướng” ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân”[21]. Hoặc, “có những đồng chí còn giữ óc địa vị, cố tranh làm cho được ủy viên này, chủ tịch kia. Còn có những đồng chí chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của công làm của tư, đạo đức cách mệnh thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc”[22]. Đó là biểu hiện của thói quan liêu, đồng thời cũng phản ánh tình trạng buông lỏng, chưa có cơ chế, giải pháp kiểm soát quyền lực trong các cơ quan của chính quyền cách mạng lúc đó. Nhận thấy những biểu hiện tiêu cực ấy sẽ ảnh hưởng xấu đến sự đoàn kết nội bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, làm cho tổ chức đảng và chính quyền suy yếu, không đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ cách mạng nặng nề và vẻ vang, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các tổ chức đảng và chính quyền ở các địa phương trong cả nước phải “mang toàn bộ tinh thần cách mạng” mà sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm, hạn chế đó. Người chỉ rõ, một trong những nội dung phải thực hiện nhằm khắc phục những khuyết điểm, hạn chế đó là: “Trong các cơ quan chỉ huy, chọn người phải đích đáng, quyền hạn phải phân minh, liên lạc phải mật thiết, hợp tác phải chặt chẽ, phải tuyệt đối tránh cái lối lạm quyền, bao biện, xung đột, phù diện và suy tỵ, không phụ trách”[23].
Đặc biệt, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh một cách cụ thể yêu cầu về công tác kiểm tra đối với cán bộ và kiểm soát trong lãnh đạo. Theo Người, việc kiểm tra công tác đối với cán bộ là “một trong năm cách đối với cán bộ”, tức là 5 phương pháp bồi dưỡng, quản lý cán bộ của Đảng. Người viết: “Kiểm tra – Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm”[24]. Đó là công việc nội bộ trong tổ chức, hàng ngũ của Đảng. Song với trách nhiệm là người lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, thì phải dựa vào nhân dân để làm tốt công việc kiểm soát hiệu quả lãnh đạo, đồng thời cũng là kiểm soát quyền lực của tổ chức đảng và các cán bộ, đảng viên. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, lãnh đạo đúng là cùng với việc “phải quyết định mọi vấn đề cho đúng”, “phải tổ chức sự thi hành cho đúng”, còn “phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”[25]. Có nghĩa là phải dựa vào dân, lấy dân làm lực lượng để thực hiện công việc kiểm soát mới có thể mang lại hiệu quả như mong muốn.
Nhất quán với nhận thức về những tác hại của chủ nghĩa cá nhân dẫn đến “phạm nhiều sai lầm”, trong đó có sai lầm, khuyết điểm về lạm dụng quyền lực, mưu lợi cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cùng với giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên: “Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”[26]. Những yêu cầu trên đây thuộc trong số các giải pháp, nguyên tắc xây dựng Đảng, kiểm soát những biểu hiện lạm dụng quyền lực trong tổ chức đảng và đảng viên. Trong bản Di chúc để lại trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[27]; “trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”[28].
Tất cả quyền lực là thuộc về Nhân dân và Nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực, vì vậy để phòng, chống sự tha hóa quyền lực, để kiểm soát quyền lực, thì Nhân dân phải thực sự làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Nhân dân phải thực sự tham gia vào quá trình quản lý đất nước, tham gia quản lý xã hội, tham gia quản lý nhà nước, tham gia quản lý, điều hành quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quá trình phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”[29]. Do vậy, có quyền Nhân dân trực tiếp làm, trực tiếp thực hiện; có quyền Nhân dân giao hay ủy quyền cho một tổ chức hay một nhóm người, thậm chí cho một người thực hiện. Và khi đã giao, đã ủy quyền thì Nhân dân phải kiểm tra, kiểm soát, giám sát xem tổ chức, nhóm người, cá nhân được giao quyền, ủy quyền có thực hiện đúng, đầy đủ, nghiêm túc chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ được giao không hay là lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì mục đích cá nhân, vì “lợi ích nhóm”. Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công và có sự phối hợp để thực hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Khi nói về Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Người dạy “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới kính ta, yêu ta”[30]. Nhân dân giao quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo nguyên tắc có sự phân công và phối hợp để bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân và Nhân dân kiểm soát việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành nhiều sự quan tâm đến cá nhân người cán bộ khi được trao quyền lực, Người cho rằng: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Sau khi có đường lối đúng thì khâu quyết định là lựa chọn đúng cán bộ. Người căn dặn: cán bộ là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Người cho rằng: “đức” là cái gốc của cán bộ. Để chống lại tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, Người đòi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân và sự kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng. Người nhắc nhở: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân…”[31]. Vì vậy, nhất định “quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bảy tỏ cách sửa chữa sai lầm đó” và “cán bộ muốn cho xứng đáng, phải làm được việc”[32]. Theo Hồ Chí Minh, cơ chế kiểm soát quyền lực đối với bộ máy nhà nước, chính là kiểm soát “cán bộ”: “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[33].
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực được thể hiện nhất quán trong nhận thức lý luận cũng như trong các chủ trương, đường lối của Đảng về lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị. Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), nhấn mạnh: “Chúng ta đã xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”[34]. Báo cáo chính trị nhấn mạnh, yêu cầu mọi người bình đẳng trước pháp luật, phải tôn trọng và chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh: “Trong điều kiện đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều phải đưa ra xét xử theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý “nội bộ”. Không làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo “lễ”. Hiến pháp quy định: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”[35]. Có thể nói, yêu cầu trên đã làm rõ nhận thức của Đảng về vấn đề tôn trọng, thực thi pháp luật trong xã hội – nội dung cốt lõi của nhà nước pháp quyền, lấy pháp luật là cơ sở tối cao trong quản lý và điều chỉnh mọi hoạt động trong xã hội. Mặt khác, còn thể hiện thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và kiên quyết đấu tranh nhằm loại bỏ sự lạm dụng quyền lực trong bộ máy, tổ chức Đảng và Nhà nước nói riêng, vì mục đích cá nhân vụ lợi, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân./.
ThS. Lê Đức Trung, Trưởng phòng
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] Đại Việt sử ký toàn thư trọn bộ, NXB văn hóa thông tin, H.2010, tr.268.
[2] Đại Việt sử ký toàn thư trọn bộ, NXB văn hóa thông tin, H.2010, tr.361.
[3] Hồ Chí minh toàn tập – NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tập 6, tr.448
[4] Hồ Chí minh toàn tập – NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tập 6, tr.110
[5] Hồ Chí minh toàn tập – NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tập 6, tr.494
[6] Hồ Chí minh toàn tập – NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tập 6, tr.292 – 293
[7] Hồ Chí minh toàn tập – NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tập 6, tr.495
[8] Xã luận báo Cứu quốc ngày 27/9/1950
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, tr. 90, 421
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, tr. 141
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, tr.290 – 291
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, tr.576
[15] Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, nói năm 1952, Sách Hồ Chí Minh tuyển tập. Nxb Sự thật Hà Nội, 1960 – Tr414.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, tr.534
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, tr.576
[18] Một số vấn đề cơ bản về phòng ngừa và chống tham nhũng, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004.
[19] Ngân hàng thế giới “Các hình thái tham nhũng – giám sát các khả năng tham nhũng ở cấp ngành” NXB văn hóa thông tin, H.2008, tr.13.
[20] Hoàn thiện thể chế để bảo đảm “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng – đăng trên dangcongsan.vn ngày 28/01/2021.
[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 88
[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, tr. 94
[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 95 – 96
[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 316
[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 325
[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 547
[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 622
[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 547, 622
[29] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 698
[30] Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, 2000, tr. 57
[31] Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, 2000, tr. 104-105
[32] Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, 2000, tr. 208
[33] Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, 2000, tr. 273
[34] Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47
[35] Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 455 – 456