Đi sâu hơn về mối quan hệ giữa quản trị nhà nước và nhân quyền, OHCHR cho rằng đây là hai phạm trù gắn kết, củng cố lẫn nhau, trong đó: “Các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người cung cấp một tập hợp giá trị để hướng dẫn công việc của các nhà nước và các chủ thể chính trị và xã hội khác. Quyền con người cũng đóng vai trò là một bộ tiêu chuẩn mà các chủ thể này phải chịu trách nhiệm thi hành. Hơn nữa, các nguyên tắc về quyền con người dẫn dắt nội dung của các nỗ lực quản trị nhà nước, cụ thể là cho các hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật, các chương trình hành động, việc phân bổ ngân sách và các công việc khác”[2]. Ở chiều ngược lại, nếu không có quản trị nhà nước, các quyền con người sẽ không thể được tôn trọng và bảo vệ một cách hiệu quả và bền vững[3]. Đó là bởi việc bảo đảm quyền con người phụ thuộc vào môi trường xã hội phù hợp mà trong đó có một khung khổ pháp luật và những thiết chế dân chủ, tiến bộ, minh bạch, có trách nhiệm giải trình và vì con người. Môi trường xã hội như vậy chỉ có thể tạo lập được bằng quản trị nhà nước tốt.
Có thể khẳng định rằng, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người là một yêu cầu không thể thiếu của quản trị nhà nước nói chung, KSQL và PCTN nói riêng. Ngược lại, việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người cũng chính là những điều kiện để KSQL và PCTN hiệu quả. Thông qua việc nâng cao hiệu quả và tính bền vững của hoạt động, KSQL và PCTN gián tiếp thúc đẩy việc bảo đảm quyền con người, bởi lẽ tham nhũng không chỉ phá hoại tính chính danh và nền quản trị nhà nước, mà còn gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền con người. Tham nhũng làm mất đi những nguồn lực to lớn mà Nhà nước lẽ ra có thể dành cho việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của người dân. Không chỉ vậy, ở nhiều quốc gia, tham nhũng tạo ra mâu thuẫn, xung đột xã hội khoét sâu khoảng cách giữa Nhà nước và người dân, từ đó dẫn đến việc Nhà nước hạn chế, thậm chí vi phạm các quyền dân sự, chính trị của người dân với danh nghĩa giữ gìn an ninh, trật tự xã hội.
2. Tiếp cận kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng từ góc độ bảo vệ, bảo đảm quyền con người
Như đã phân tích ở phần trên, việc bảo đảm quyền con người có mối liên hệ tác động qua lại với KSQL và PCTN. Một trong những mục đích của KSQL và PCTN là để bảo đảm thực hiện các quyền con người[4], trong khi việc bảo đảm quyền con người là một yêu cầu không thể thiếu để KSQL và PCTN.
Thực tế hiện nay cho thấy, việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người đang là một yêu cầu và một hoạt động đặc biệt quan trọng trong quản trị nhà nước nói chung, KSQL và PCTN nói riêng ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhìn từ khía cạnh quản trị nhà nước, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người có liên quan đến một loạt nguyên tắc của KSQL và PCTN, trong đó đặc biệt là các nguyên tắc pháp quyền, sự tham gia của người dân, minh bạch, trách nhiệm giải trình, công bằng và bao trùm. Điều đó cũng có nghĩa là để tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người một cách đầy đủ và hiệu quả thì quản lý nhà nước cũng cần được đổi mới theo các nguyên tắc pháp quyền, sự tham gia của người dân, minh bạch, trách nhiệm giải trình, công bằng và bao trùm của quản trị nhà nước tốt.
Trong số các nguyên tắc của KSQL và PCTN, quyền con người có mối liên hệ gắn kết, chặt chẽ nhất với nguyên tắc pháp quyền. Mối liên hệ đó thể hiện ngay trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, trong đó nêu rằng “Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp quyền bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền”[5]. Vấn đề này sau đó tiếp tục được đề cập trong Tuyên bố Thiên niên kỷ năm 2000 của Liên hợp quốc, qua cam kết của các quốc gia về “… thúc đẩy sự tôn trọng pháp quyền trong các quan hệ ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế…”[6] để bảo đảm sự thừa nhận các quyền và tự do cơ bản của con người.
Trong định nghĩa về pháp quyền (the rule of law), Tổng Thư ký Liên hợp quốc đã nêu rõ, đó là một nguyên tắc quản trị mà trong đó mọi chủ thể, bao gồm nhà nước, đều phải tuân thủ pháp luật, và pháp luật đó phải phù hợp các nguyên tắc và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế [7]. Định nghĩa này đã đặt nhân quyền vào trung tâm của khái niệm pháp quyền, xem đó vừa là một tiêu chí, vừa là một yêu cầu của nhà nước pháp quyền, và phần nào phản ánh mối quan hệ gắn bó giữa hai phạm trù này. Tiếp đó, trong Hội nghị thượng đỉnh thế giới năm 2005, các quốc gia thành viên cũng thừa nhận pháp quyền và nhân quyền là những giá trị và nguyên tắc cốt lõi phổ quát của Liên hợp quốc[8]. Đi sâu hơn về mối quan hệ đó, trong Tuyên bố thông qua tại Cuộc họp cấp cao của Đại hội đồng Liên hợp quốc về pháp quyền ở cấp độ quốc gia và quốc tế đã “tái khẳng định rằng quyền con người, pháp quyền và dân chủ có mối liên kết chặt chẽ, củng cố lẫn nhau và chúng đều thuộc về các giá trị và nguyên tắc phổ quát, cốt lõi, không thể chia cắt của Liên hợp quốc”[9]. Tuyên bố cũng nêu rõ “… sự tiến bộ của pháp quyền ở cấp độ quốc tế và quốc gia là điều cốt yếu cho tăng trưởng kinh tế bền vững và bao trùm, cho sự phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo và việc hiện thực hóa đầy đủ các quyền và tự do cơ bản của con người, bao gồm cả quyền phát triển; và đến lượt nó, sự phát triển của các quyền đó lại củng cố pháp quyền…”. Từ những nhận định như vậy, Tuyên bố khẳng định “… mối quan hệ tương hỗ (giữa pháp quyền và nhân quyền) cần được xem xét trong chương trình nghị sự phát triển quốc tế sau năm 2015”. Trong một văn kiện khác, Liên hợp quốc cũng khẳng định: “Ở cấp độ quốc gia, pháp quyền là trọng tâm của khế ước xã hội giữa Nhà nước và các cá nhân dưới quyền tài phán của mình, có tác dụng đảm bảo rằng công lý thấm vào xã hội ở mọi cấp độ. Pháp quyền đảm bảo việc bảo vệ đầy đủ các quyền con người, mang lại cho công dân và cả những người không phải là công dân những cách thức hợp pháp để tìm công lý trong trường hợp là nạn nhân của sự lạm dụng quyền lực và cho phép giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình và công bằng”[10].
Trong bộ Chỉ số pháp quyền của WJP, nhóm chỉ số về quyền con người có vị trí rất quan trọng, vì quyền con người được xem là không thể thiếu để đánh giá mức độ pháp quyền của các quốc gia. Nếu các quyền con người không được thừa nhận và tôn trọng thì quốc gia sẽ không được xem là một nhà nước pháp quyền. Bộ chỉ số đề cập những quyền con người cơ bản (fundamental rights) được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, cụ thể bao gồm: Quyền được đối xử công bằng, không bị định kiến, phân biệt; Quyền sống và an ninh cá nhân; Quyền của người bị buộc tội và tố tụng chuẩn (Due process of law); Quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Quyền được bảo vệ đời tư; Quyền tự do hiệp hội, hội họp; Quyền về lao động, việc làm.
Từ những phân tích ở trên có thể nêu ra một số quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế KSQL và PCTN trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như sau:
Về quan điểm:
Thứ nhất, KSQL và PCTN là vấn đề chính trị – pháp lý mới, rất sâu sắc, liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân và lợi ích của từng cơ quan, từng cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước. Do đó, cần xem việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế KSQL và PCTN như là một nhiệm vụ trọng tâm trong việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, đồng thời là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, đòi hỏi phải có sự thống nhất và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, trong đó sự lãnh đạo và chỉ đạo sát sao và quyết liệt của Đảng giữ vai trò đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định. Thực hiện hiệu quả mục tiêu đến năm 2030 trong Nghị quyết số 27/NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương khóa XIII là: “Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả” và xác định “hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực, tham nhũng là trọng tâm của công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”.
Thứ hai, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế KSQL, PCTN đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, cần phải thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nâng cao nhận thức, ý thức của các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức về quyền con người; quán triệt nhận thức rằng quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo, cầm quyền cũng như quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, vì thế phảiđược tổ chức và hoạt động trong giới hạn, bị ràng buộc và bị kiểm soát theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, phụng sự nhân dân là nguyên tắc tối cao trong tổ chức và thực thi quyền lực của toàn bộ hệ thống chính trị, chứ không chỉ của nhà nước.
Thứ ba, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cả cơ chế KSQL và PCTN, đồng bộ, hệ thống trong tổng thể các biện pháp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung, trong việc tiếp tục cải cách, đổi mới hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước nói riêng. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế KSQL, PCTN là vấn đề mới, nhạy cảm, cần có sự tham khảo các giá trị phổ quát của các nhà nước dân chủ và pháp quyền trên thế giới, với sự vận dụng và phát triển thận trọng phù hợp với hệ thống chính trị và truyền thống văn hóa của nước ta; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới phát triển.
Về nhiệm vụ:
– Một là, nâng cao nhận thức về vai trò và vị trí của cơ chế KSQL nói chung, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng. Đó là phương tiện cực kỳ quan trọng trong phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước, làm cho quyền lực nhà nước mạnh, hiệu lực và hiệu quả, thực sự là quyền lực của nhân dân. Hình thành tư duy thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong thực thi quyền lực nhà nước; coi Hiến pháp và pháp luật là phương tiện để giới hạn và kiểm soát việc thực thi quyền lực, coi quyền con người, quyền công dân là mục tiêu thực thi quyền lực của hệ thống chính trị.
– Hai là, hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực chính trị nói chung, quyền lực nhà nước nói riêng. Xác định rõ hơn, đầy đủ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là các cơ quan nhà nước, trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công mạch lạc, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực cả bên trong và bên ngoài bộ máy nhà nước; nghiên cứu mở rộng cơ chế kiểm soát quyền lực đến mọi chủ thể của hệ thống chính trị.
– Ba là, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước với cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của Đảng đối với nhà nước và cơ chế giám sát kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng thể kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
– Bốn là, kiên quyết kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. “Nghiên cứu thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ban hành các quy định về kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án”.
Về giải pháp:
Để thực thi mục tiêu và nhiệm vụ nói trên, cần tiến hành các giải pháp sau:
– Một là, tiếp tục nghiên cứu xây dựng hệ thống lý luận đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó cần làm sâu sắc lý luận và thực tiễn KSQL và PCTN trong hệ thống chính trị một đảng. Nâng cao văn hóa pháp luật, văn hoá nhân quyền, ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, ý thức tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của đội ngũ cán bộ Đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi quyền lực nhà nước bằng việc đổi mới mạnh mẽ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, giáo dục nhân quyền. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng và Đảng viên trong việc học tập, quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước pháp quyền XHCN nói chung, về thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, KSQL, PCTN và tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm nhân quyền nói riêng.
– Hai là, rà soát các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế trong hệ thống chính trị để phân công, giám sát quyền lực phù hợp, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc quy định không đúng hay bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. KSQL và PCTN chỉ có hiệu lực và hiệu quả trên cơ sở phân công quyền lực một cách phù hợp, đúng đắn, rõ ràng, minh bạch giữa các chủ thể trong hệ thống chính trị, và giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Ba là, cùng với việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật để trong mỗi quyền, mỗi cơ quan đều có cơ chế tự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước đủ mạnh để tự mình kiểm soát có hiệu quả quyền lực nhà nước của mình. Ví dụ, cần nghiên cứu hình thành cơ chế tự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, hình thành cơ chế kiểm soát, đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội. Cũng cần đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ ngành và Thanh tra của các địa phương thực sự là công cụ kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước trong các cơ quan hành chính nhà nước, khắc phục nhận thức một chiều xem thanh tra là công cụ quản lý nhà nước, phục vụ thủ trưởng quản lý nhà nước.
- Bốn là, đẩy mạnh phân câp, phân quyền một cách khoa học, hợp lý; nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, sáng tạo của chính quyền địa phương gắn với kiểm tra, giám sát chặt chẽ của cấp trên đối với cấp dưới. Xác định rõ cơ chế phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương trên từng ngành, từng lĩnh vực; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm trách nhiệm rõ ràng, trên cơ sở đó tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra cấp trên đối với cấp dưới. Kiện toàn cơ chế thanh tra, kiểm tra ở mỗi cấp đủ mạnh để kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước ở cấp mình và cấp dưới.
- Năm là, phối hợp chặt chẽ giữa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước với cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng đối với nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân (cơ chế kiểm soát quyền lực bên ngoài). Phát huy hơn nữa vai trò của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể và cơ quan báo chí trong giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng quy chế, quy trình phối hợp chặt chẽ giữa giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của các cơ quan của Quốc hội với giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội. Phối hợp chặt chẽ giữa Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ ngành và chính quyền địa phương với Uỷ ban kiểm tra Đảng trung ương, Uỷ ban kiểm tra đảng các cấp trong việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, tiêu cực; phát hiện xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực để không dám tham nhũng, tiêu cực; xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để không cần, không muốn tiêu cực, tham nhũng.
3. Củng cố mô hình kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam thông qua việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Ngay từ khi thành lập (1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền con người, thông qua các khẩu hiệu đấu tranh cho “Việt Nam tự do”, quyền “tự do tổ chức”; “nam nữ bình quyền”, quyền phổ cập giáo dục, quyền của người công nhân chỉ làm việc 8 giờ/ngày… Trong Luận cương cách mạng Việt Nam thông qua tại Đại hội lần thứ II (1951), Đảng đã khẳng định rõ mục tiêu bảo đảm mọi công dân đều: “…được hưởng quyền con người, dân quyền và tài quyền[11]“… Mặc dù mới chỉ mang tính khái quát, song quan điểm, đường lối của Đảng thời kỳ này hoàn toàn phù hợp với nhận thức tiến bộ về quyền con người của cộng đồng quốc tế khi đó.
Tuy nhiên, trong các thập kỷ 1960 – 1980, do phải tập trung lãnh đạo đất nước hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nên vấn đề quyền con người ít được đề cập bởi Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, nhận thức của Đảng về quyền con người trong thời kỳ nay chịu ảnh hưởng nhiều bởi quan điểm về chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp mà phổ biến trong hệ thống các nước XHCN, vì thế có những khác biệt nhất định so với quan điểm về tính phổ quát của quyền con người mà được Liên hợp quốc bảo vệ. Song, đến cuối thập kỷ 1980, sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN Liên Xô-Đông Âu và quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế đã đặt ra yêu cầu với Đảng trong việc nhận thức rõ hơn về vấn đề tôn trọng, bảo đảm quyền con người. Vì vậy, song song với việc đổi mới nhận thức theo hướng thừa nhận và xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đổi mới nhận thức về việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người theo hướng xem đó là một giá trị phổ quát của toàn nhân loại. Những nhận thức mới đó thể hiện qua nhiều văn kiện đại hội Đảng nối tiếp nhau từ 1986 đến nay. Cụ thể, Đại hội VI của Đảng (1986) tuy chưa đề cập khái niệm quyền con người nhưng đã khẳng định yêu cầu với các cơ quan nhà nước “…phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định”[12] và “…bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động”[13]. Đến Đại hội VII (1991), lần đầu tiên khái niệm quyền con người chính thức được ghi nhận trong văn kiện Đảng: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người”[14]. Vào năm 1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về Vấn đề quyền con người và quan điểm, đường lối của Đảng ta. Đây chính là những tiền đề để khái niệm “quyền con người” lần đầu tiên được hiến định trong Điều 50 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) lần đầu tiên khẳng định trách nhiệm của nhà nước và nghĩa vụ của quốc gia về quyền con người, cụ thể là: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”[15]. Đại hội X của Đảng (2006) nhấn mạnh yêu cầu “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người”[16] . Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) trong đó nêu rõ: “Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”[17]. Đại hội lần thứ XII của Đảng (2016) nhấn mạnh: “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013… hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”[18]. Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021) tiếp tục đặt ra yêu cầu “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”[19].
Như vậy, từ những phân tích trên, có thể thấy việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế. Đây là cơ sở, nền tảng quan trọng để xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật, chỉ đạo mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong thực tế ở nước ta.
Trên cơ sở những nhận thức mới của Đảng về nhà nước pháp quyền và quyền con người đã nêu ở trên, kể từ Đổi mới (1986), đặc biệt là từ khi Hiến pháp 2013 được thông qua, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng liên tục được sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường mức độ tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Bối cảnh nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết cần thúc đẩy sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam trong những năm tới. Điều đó là bởi không thể KSQL và PCTN hiệu quả nếu quyền con người, quyền công dân không được bảo vệ. Ngược lại, quyền con người, quyền công dân chỉ được bảo vệ trên thực tế khi các hoạt động KSQL và PCTN được thực hiện có hiệu quả cao.
Trong thực tế, kể từ Đổi mới đến nay, Việt Nam đã có những bước tiến lớn, và đạt được những thành tựu không thể phủ nhận cả trong việc KSQL, PCTN và bảo đảm quyền con người. Tuy nhiên, bối cảnh cả trong và ngoài nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao hơn trong cả hai vấn đề này. Điều đó đòi hỏi phải có những nhận thức thấu đáo hơn về việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nhưng trong nhận thức chung ở Việt Nam hiện nay, việc thúc đẩy sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân dường như chưa phải là vấn đề cấp thiết như một số vấn đề khác, cụ thể như phát triển kinh tế hay KSQL và PCTN.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cần tiếp tục đổi mới tư duy để xem việc thúc đẩy sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng bậc nhất ở nước ta hiện nay. Việc này không chỉ quyết định sự thành công trong xây dựng nhà nước pháp quyền, KSQL, PCTN, mà còn liên quan đến sự tồn vong của chế độ chính trị. Xét đến cùng, một chế độ chính trị có tồn tại vững bền hay không không chỉ phụ thuộc vào việc chế độ đó có KSQL và PCTN hiệu quả hay không, mà còn phụ thuộc vào việc chế độ đó có thực sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người hay không và đến mức độ nào. Liên quan đến sự phát triển kinh tế, kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy mức độ đòi hỏi về quyền con người của người dân sẽ tăng lên ở mức tỷ lệ thuận so với với mức độ cải thiện về mức sống, và vì vậy, việc chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế mà thiếu quan tâm đến việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người cũng tiềm ẩn những rủi ro về biến động xã hội.
Để đạt được mục tiêu tăng cường tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, cần xem xét và áp dụng một số giải pháp cả về thể chế và thiết chế. Về thể chế, cần tiếp tục hoàn thiện nội dung và cơ chế bảo đảm thực thi các nguyên tắc hiến định liên quan đến việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hệ thống các quyền con người, quyền công dân được hiến định theo hướng bảo đảm sự tương thích đầy đủ với các nguyên tắc, tiêu chuẩn pháp luật quốc tế về quyền con người. Về thể chế, cần hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người của các cơ quan nhà nước mà đã được nêu trong Hiến pháp 2013, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung các luật chuyên ngành để quy định cụ thể nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của các cơ quan trung ương như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, TAND, VKSND. Đặc biệt, cần xúc tiến thành lập cơ quan quốc gia về quyền con người bởi thực tiễn trên thế giới cho thấy thiết chế này là một bộ phận không thể thiếu trong cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở các quốc gia, và để thực hiện những cam kết về vấn đề này của Nhà nước khi vận động để được bầu là thành viên của Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc. Ngoài ra, cũng cần xúc tiến thiết lập cơ quan bảo hiến theo quy định tại Điều 119 Hiến pháp 2013 để bảo đảm mọi hành vi vi phạm các quyền hiến định đều bị xử lý.
PGS.TS Vũ Công Giao
Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quyền con người,
Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[1] OHCHR: About good governance and human rights, https://www. ohchr.org/en/good-governance, truy cập ngày 12/10/2022.
[2] OHCHR: What is good governance? Sđd.
[3]OHCHR: What is good governance? Sđd.
[4], 2. OHCHR: About good governance and human rights, https://www.ohchr.org/en/good-governance/about-good-governance, truy cập ngày 30/11/2022.
[5]. United Nations: The UniversalDeclaration of Human Rights, 1948, Preamble.
[6]. United Nations: United Nations Millennium Declaration, General Assembly resolution 55/2 of 8 September 2000, section 8.
[7]. Xem UN Security Council: The rule of law and transitional justice in conflict and post-conflict societies: report of the Secretary-General, đoạn 6, 2004, tại: http://www.refworld.org/docid/45069c434.html, truy cập ngày 30/11/2022.
[8]. United Nations: 2005 World Summit Outcome, Resolution adopted by the General Assembly on 16 September 2005. A/RES/60/1.
[9], 2, 3. United Nations: Declaration of the High-level Meeting of the General Assembly on the Rule of Law at the National and International Levels. Resolution adopted by the General Assembly, A/RES/67/1, 30 November 2012, đoạn 5, đoạn 7, tại https://www.un.org/ruleoflaw/files/A-RES-67-1.pdf, truy cập ngày 30/11/2022.
[10]. United Nations: Delivering justice: programme of action to strengthen the rule of law at the national and international levels: Report of the Secretary-General, A/66/749, 2012, đoạn 4, tại https://undocs.org/en/A/66/749, truy cập ngày 30/11/2022.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, t.12, tr.105.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sựthật, H.1987, tr.112.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tài liệu đã dẫn, tr.117.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.19.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2001, tr.134.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tài liệu đã dẫn, tr.72.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tài liệu đã dẫn, tr.76.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2016, tr.169.
[19]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, trang 173