1. Khái quát về Kiểm toán Nhà nước khu vực và Thanh tra tỉnh:
Kiểm toán Nhà nước được tổ chức theo hệ thống dọc tức là tổ chức và quản lý tập trung thống nhất trong cả nước, cơ cấu tổ chức gồm: Văn phòng Kiểm toán nhà nước, các đơn vị thuộc bộ máy điều hành, Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực và đơn vị sự nghiệp công lập. Kiểm toán Nhà nước khu vực là đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước, thực hiện kiểm toán đối với đơn vị được kiểm toán ở địa phương và các nhiệm vụ theo sự phân công của Tổng Kiểm toán Nhà nước[1]. Như vậy, Kiểm toán Nhà nước khu vực chịu sự chỉ đạo trực tiếp trong hoạt động của Tổng Kiểm toán Nhà nước. Có tất cả 13 Kiểm toán Nhà nước khu vực, mỗi Kiểm toán Nhà nước khu vực phụ trách một nhóm tỉnh được phân công. Kiểm toán Nhà nước khu vực có chức năng giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên địa bàn khu vực theo sự phân công của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
Các cơ quan thanh tra được tổ chức theo mô hình song trùng trực thuộc, bao gồm cơ quan thanh tra theo cấp hành chính (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện) và cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực (Thanh tra bộ, Thanh tra Tổng cục, cục, Thanh tra sở). Mỗi cơ quan thanh tra sẽ trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp của cơ quan thanh tra cấp trên. Thanh tra tỉnh được thành lập ở 63 tỉnh, thành phố, là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật[2]. Vì vậy, Thanh tra tỉnh chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà trực tiếp là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
Xuất phát từ địa vị pháp lý trên của hai cơ quan, có thể thấy, mối quan hệ phối hợp công tác sẽ có những điểm đặc thù, khác với sự phối hợp giữa hai cơ quan có địa vị pháp lý tương đương. Đây là sự phối hợp giữa một đơn vị của cơ quan ở trung ương đặt tại địa phương với một cơ quan trực thuộc chính quyền địa phương. Trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động của hai cơ quan cũng có những điểm đặc thù riêng đòi hỏi việc phối hợp phải chú ý mới có thể đem lại hiệu quả.
2. Thực trạng phối hợp giữa Kiểm toán Nhà nước khu vực và Thanh tra tỉnh trong hoạt động thanh tra, kiểm toán
Thời gian vừa qua, các Luật, văn văn bản do cơ quan cấp trung ương ban hành đã bổ sung nhiều quy định từng bước xác định rõ ràng hơn các nguyên tắc, nội dung, phương thức, trách nhiệm phối hợp giữa Kiểm toán Nhà nước và cơ quan thanh tra các cấp, trong đó có Kiểm toán Nhà nước khu vực và cơ quan Thanh tra Nhà nước cấp tỉnh như: Luật Thanh tra năm 2022; Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi, bổ sung năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019; Quyết định số 02/2023/QĐ- Kiểm toán nhà nước ngày 9/2/2023 của Kiểm toán Nhà nước quy định lập, thẩm định và ban hành Kế hoạch kiểm toán năm, Kế hoạch kiểm toán trung hạn của Kiểm toán Nhà nước (thay thế Quyết định số 03/2017/QĐ-KTNN ngày 21/3/2017); Quyết định số 08/2023/QĐ-KTNN ngày 29/5/2023 ban hành quy trình kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước; Thông tư số 06/2021/TT-TTCP ngày 1/10/2021 của Tổng Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động của đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra, Quy chế phối hợp giữa Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra Chính phủ số 1618/QCPH: Kiểm toán Nhà nước – Thanh tra Chính phủ ngày 23/9/2021, Chỉ thị 20/CT-TTg năm 2017 về chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, Chỉ thị số 1034/CT-KTNN ngày 03/7/2017 về chấn chỉnh hoạt động kiểm toán…. Cùng với việc ký kết quy chế phối hợp công tác giữa Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước còn ký quy chế phối hợp công tác với Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, có những địa phương được ký kết từ rất sớm vào năm 2014 như Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Phú Thọ, Yên Bái, Thanh Hóa, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước và Bình Thuận….. Các văn bản này tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phối hợp trên thực tế, giúp cho hoạt động phối hợp phần nào bài bản, chặt chẽ và thống nhất hơn. Đặc biệt, Luật Thanh tra năm 2022 đã chính thức hóa vai trò đầu mối của Thanh tra tỉnh trong việc tập hợp, xây dựng Kế hoạch thanh tra chung của tỉnh. Đây chính là cơ sở quan trọng để thống nhất cách làm trong phạm vi cả nước về vai trò đầu mối của Thanh tra tỉnh trong xây dựng Kế hoạch thanh tra cũng như phối hợp với Kiểm toán Nhà nước trong việc xử lý chồng chéo, trùng lắp.
Trên cơ sở đó, việc phối hợp giữa hai bên đã đem lại những kết quả tích cực như sau:
Nội dung phối hợp được thực hiện tương đối toàn diện từ khi xây dựng, hoàn thiện dự thảo kế hoạch thanh tra, kiểm toán cho tới khi triển khai thực hiện kế hoạch, tiến hành thanh tra, kiểm toán và đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị về thanh tra, kiểm toán ở một số địa phương. Nội dung phối hợp thường xuyên nhất chính là phối hợp trong quá trình xây dựng Kế hoạch thanh tra, kiểm toán với mục đích xử lý chồng chéo, trùng lắp có thể xảy ra, thống nhất trọng tâm thanh tra, kiểm toán. Đặc biệt, từ sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17 tháng 5 năm 2017 về việc chấn chính hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, nhiều địa phương, Thanh tra tỉnh không chỉ phối hợp với Kiểm toán nhà nước trong việc xây dựng Kế hoạch thanh tra của Thanh tra tỉnh mà còn được giao làm đầu mối xử lý chồng chéo trong xây dựng Kế hoạch thanh tra giữa các cơ quan thanh tra, kiểm tra trên địa bàn và phối hợp với Kiểm toán nhà nước khu vực để xử lý chồng chéo nên việc phối hợp được thực hiện có phần bài bản hơn. Việc phối hợp trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm toán và tổ chức thực hiện, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị bước đầu được quan tâm thực hiện, một số địa phương có sự cầu thị, cách làm hay trong việc phối hợp ở hai nội dung này.
Phương thức phối hợp giữa Kiểm toán Nhà nước khu vực và cơ quan Thanh tra nhà nước cấp tỉnh trong những năm gần đây đã đa dạng và bài bản hơn. Yêu cầu phối hợp từ phía Kiểm toán Nhà nước được tiến hành chủ động, bài bản. Việc thu thập thông tin được tiến hành thông qua gửi các văn bản (công văn, thông báo…) đề nghị cung cấp thông tin, đề nghị phối hợp, gửi kế hoạch thanh tra, kiểm toán, thông tin, dữ liệu về tiến độ, kết quả, xin ý kiến, công văn phúc đáp; thông qua các hội thảo, hội nghị để chủ động thảo luận, họp bàn, cử cán bộ đầu mối trao đổi trực tiếp. Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngoài việc phối hợp qua trao đổi ý kiến bằng văn bản, Kiểm toán Nhà nước khu vực và cơ quan Thanh tra Nhà nước cấp tỉnh một số địa phương tổ chức họp để phối hợp rà soát chi tiết từng cuộc thanh tra, kiểm toán, thống nhất để xác định, điều chỉnh trọng tâm thanh tra, kiểm toán tập trung vào những nội dung, lĩnh vực nào để tránh chồng chéo.
Công tác phối hợp giữa Kiểm toán Nhà nước khu vực và cơ quan Thanh tra Nhà nước cấp tỉnh có nhiều chuyển biến, có trọng tâm, trọng điểm, đi vào thực chất hơn, đặc biệt là sau khi Chính phủ có Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 thì việc phối hợp được đẩy mạnh, thu được nhiều kết quả. Các chồng chéo phát sinh trong cả kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch được xử lý tốt. Theo báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị 20, chưa có trường hợp chồng chéo nào trong kế hoạch không xử lý được; các bộ, ngành, địa phương đã xử lý 15.617/15.630 vụ việc/nội dung/đối tượng chồng chéo (đạt 99,9%). Một số địa phương đã xử lý nhiều chồng chéo về vụ việc, nội dung, đối tượng như: Nam Định, Quảng Ninh, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Kon Tum, Long An, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, An Giang…[3] .
Việc phối hợp làm giảm sự chồng chéo, trùng lặp theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 98/TB-VPCP ngày 22/02/2017[4], Chỉ thị số 20/CT-TTg và Nghị quyết số 75/2022/QH15 ngày 15/11/2022 của Quốc hội. Điều này góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, giảm bức xúc, ảnh hưởng đến quyền lợi và hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Việc triển khai thực hiện các quy định về phối hợp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, góp phần vào bức tranh chung về phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Công tác phối hợp, sử dụng kết quả thanh tra, kiểm toán giúp giảm bớt được thời gian, nhân lực đáng kể của hai cơ quan trên quan điểm “không thanh tra, kiểm toán về một nội dung tại một đối tượng”; phù hợp với chủ trương đổi mới, cải cách hành chính và tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Qua đó nhận được những đánh giá tích cực, cải thiện các chỉ số đánh giá về quản lý nhà nước, cải cách hành chính của chính quyền địa phương như PAPI, CPI, SIPAS.
Tuy nhiên, việc phối hợp cũng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trên cả khía cạnh quy định của pháp luật và thực tiễn, điển hình như:
Quy định về phối hợp giữa cơ quan thanh tra và Kiểm toán Nhà nước dù đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn những khoảng trống về phối hợp giữa Kiểm toán nhà nước khu vực và Thanh tra tỉnh. Việc phối hợp chủ yếu được thực hiện dựa trên các quy chế phối hợp công tác, các văn bản nội bộ ngành, văn bản chỉ đạo cá biệt của người đứng đầu các cơ quan mà chưa có nhiều quy phạm điều chỉnh. Chưa có hướng dẫn cụ thể nội dung, phương thức phối hợp để thực hiện thống nhất giữa các địa phương. Chưa có quy định pháp luật cụ thể về việc sử dụng, kế thừa kết quả thanh tra, kiểm toán nên dẫn tới khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, sử dụng kết quả thanh tra, kiểm toán, trách nhiệm của các bên. Khoản 2, Điều 110 Luật Thanh tra năm 2022 quy định: cơ quan thanh tra có quyền sử dụng thông tin, số liệu, kết luận trong báo cáo kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước để phục vụ cho việc kết luận thanh tra. Tuy nhiên, cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm của các bên.
Quy trình xây dựng định hướng chương trình, kế hoạch thanh tra, kế hoạch kiểm toán đã có những quy định về phối hợp nhằm phòng ngừa, giảm thiểu sự chồng chéo, trùng lặp thông qua việc lấy ý kiến của các cơ quan hữu quan, cơ quan thanh tra, kiểm toán. Tuy nhiên, những quy định này còn mang tính tùy nghi “trong trường hợp cần thiết” mà chưa xác định rõ trường hợp cần thiết là trường hợp nào, khi nào việc lấy ý kiến là bắt buộc. Đồng thời, chưa cụ thể hóa cơ quan hữu quan là cơ quan nào, cơ quan thanh tra nào cần phải lấy ý kiến. … Do vậy, trong thực tế, việc kiểm soát sự chồng chéo, trùng lặp vẫn chưa được triệt để.
Một số nội dung, phương thức phối hợp còn ít được thực hiện và chưa đem lại nhiều tác dụng trên thực tế như phối hợp trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm toán; trong thực hiện và theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra, kiểm toán. Việc trao đổi thông tin, cung cấp tài liệu giữa Kiểm toán Nhà nước khu vực và Thanh tra tỉnh đôi lúc còn chưa kịp thời dẫn đến còn xảy ra việc trùng lắp, chồng chéo trong quá trình xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm toán, gây khó khăn cho việc đưa ra nhận xét, kết luận của Kiểm toán nhà nước; ảnh hưởng đến thời gian phát hành Biên bản kiểm toán, Báo cáo kiểm toán; ảnh hưởng đến chất lượng kiến nghị kiểm toán. Việc phối hợp theo dõi, đôn đốc, kiểm tra đối với việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước khu vực, Thanh tra tỉnh còn ít dẫn đến một số địa phương tỷ lệ thực hiện còn thấp và báo cáo chưa đúng theo thời gian quy định.
Trong từng nội dung phối hợp, mỗi địa phương lại có những cách làm khác nhau (có địa phương Thanh tra tỉnh được giao làm đầu mối cố định, có địa phương Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành văn bản chỉ đạo theo từng năm, từng vấn đề…). Vẫn còn những trường hợp trong một khoảng thời gian ngắn có cơ quan, đơn vị “phải tiếp đón” các đoàn thanh tra, kiểm toán, phần nào gây lãng phí nguồn nhân lực, gây phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị được thanh tra, kiểm toán.
Cơ quan Thanh tra tỉnh còn bị động trong việc phối hợp. Việc xây dựng dự kiến Kế hoạch kiểm toán được tiến hành sớm hơn, từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm, Kiểm toán nhà nước khu vực đã có dự kiến Kế hoạch kiểm toán của đơn vị, Kiểm toán nhà nước có dự thảo Kế hoạch kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước nên các Kiểm toán Nhà nước khu vực thường chủ động gửi đề nghị phối hợp, xử lý chồng chéo, trùng lặp cho Thanh tra tỉnh từ tháng 6 hàng năm để hoàn thiện dự thảo. Trong suốt quá trình đó, cơ quan Thanh tra tỉnh thường dựa vào đề nghị của Kiểm toán nhà nước để cung cấp thông tin và thực hiện các đề nghị của Kiểm toán nhà nước. Trong khi đó, tháng 11 Thanh tra tỉnh mới xây dựng kế hoạch thanh tra (do tháng 10 Định hướng chương trình thanh tra của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ mới được ban hành) nên việc xây dựng Kế hoạch thanh ra của các cơ quan thanh tra nói chung và Thanh tra tỉnh nói riêng thường đi sau. Cơ quan Thanh tra tỉnh thường phải căn cứ vào dự kiến Kế hoạch kiểm toán để rà soát, điều chỉnh khi xây dựng kế hoạch thanh tra. Thanh tra tỉnh thường chỉ có sự chủ động đề nghị phối hợp khi phát sinh chồng chéo hoặc cần tới những thông tin nhất định trong quá trình triển khai thực hiện Kế hoạch.
3. Một số giải pháp phối hợp giữa Kiểm toán Nhà nước khu vực và Thanh tra tỉnh trong hoạt động thanh tra, kiểm toán
Một là, về hoàn thiện quy định của pháp luật
Quy định rõ căn cứ ban hành quyết định thanh tra đột xuất, quyết định kiểm toán ngoài Kế hoạch kiểm toán đã ban hành; cơ chế kiểm soát các cuộc thanh tra, kiểm toán này; việc xử lý chồng chéo giữa các cuộc thanh tra đột xuất với kiểm toán theo kế hoạch hoặc kiểm toán ngoài kế hoạch với thanh tra theo kế hoạch. Bổ sung quy định xác định rõ giá trị pháp lý của Kế hoạch kiểm toán và Kế hoạch thanh tra trong mối quan hệ với nhau. Qua đó tránh tình trạng lạm dụng quy định tùy nghi và bảo đảm tốt việc phối hợp.
Sửa đổi quy định về thời điểm Thanh tra Chính phủ xây dựng, trình Thủ trướng Chính phủ ban hành Định hướng chương trình thanh tra và Thanh tra Chính phủ ban hành hướng dẫn xây dựng Kế hoạch thanh tra sớm hơn và tương thích với thời điểm xây dựng Kế hoạch kiểm toán (tháng 6 – 7 hàng năm) để cơ quan thanh tra bộ, ngành, địa phương (trong đó có Thanh tra tỉnh) có nhiều thời gian hơn trong việc xây dựng dự thảo, thu thập thông tin, xin ý kiến, thống nhất với các cơ quan liên quan và hoàn thiện dự thảo Kế hoạch cũng như thuận lợi trong việc phối hợp với cơ quan Kiểm toán Nhà nước khu vực để xử lý chồng chéo, trùng lặp.
Trao quyền ban hành Kế hoạch thanh tra cho cơ quan thanh tra các cấp, các ngành. Đồng thời với đó, quy định rõ ràng hơn thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ trong việc chủ trì, hướng dẫn việc xây dựng, ban hành kế hoạch thanh tra có tính thống nhất trong toàn ngành.
Bổ sung các quy định cụ thể về phối hợp giữa Kiểm toán nhà nước và cơ quan Thanh tra nhà nước các cấp (trong đó có cấp tỉnh): (i) Bổ sung quy định về nguyên tắc, quy trình phối hợp thống nhất giữa Kiểm toán nhà nước và cơ quan Thanh tra nhà nước các cấp, đặc biệt là thời điểm trao đổi thông tin trong quá trình xây dựng Kế hoạch thanh tra, kiểm toán hàng năm. Đồng thời, xác lập rõ ràng trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ trong việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc cơ quan thanh tra các cấp xây dựng và điều chỉnh kế hoạch thanh tra để tránh chồng chéo, trùng lắp với kế hoạch kiểm toán; (ii) Hướng dẫn cụ thể các nội dung của Luật Thanh tra năm 2022 và Luật Kiểm toán nhà nước về nội dung, cách thức, phương pháp trao đổi thông tin hoạt động thanh tra, kiểm toán giữa Kiểm toán Nhà nước với cơ quan thanh tra các cấp; nội dung và cách thức kế thừa và sử dụng kết quả thanh tra, kiểm toán của nhau để có cơ sở triển khai thực hiện thống nhất.
Nghiên cứu bổ sung quy định và xây dựng cơ chế tạo quyền chủ động cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước khi phát hiện có chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán tại đơn vị mình và có căn cứ, hồ sơ, tài liệu chứng minh về sự chồng chéo, trùng lặp đó thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét dừng hoặc hoãn việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Trong trường hợp có cơ sở xác định việc chồng chéo, cơ quan có thẩm quyền phải chấp thuận đề nghị của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước.
Sửa đổi quy chế phối hợp công tác giữa Kiểm toán Nhà nước với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố theo hướng: Kiểm toán Nhà nước ủy quyền cho Kiểm toán Nhà nước khu vực, Ủy ban nhân dân các tỉnh giao cho Thanh tra tỉnh làm đầu mối phối hợp với Kiểm toán Nhà nước khu vực để Thanh tra tỉnh có vai trò ổn định, chính thống trong việc phối hợp với Kiểm toán Nhà nước khu vực trong hoạt động thanh tra, kiểm toán ở những nội dung nhất định, tránh tình trạng thiếu thống nhất giữa các địa phương như hiện nay; Quy định về thời điểm gửi dự kiến kế hoạch kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước khu vực và kế hoạch thanh tra của Thanh tra tỉnh để trao đổi ý kiến cho phù hợp; quy định thời điểm bắt buộc phải gửi Kế hoạch sau khi ban hành; Quy định cụ thể về cách thức xử lý khi xảy ra sự chồng chéo trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch thanh tra của Thanh tra tỉnh, kế hoạch thanh tra của tỉnh và kế hoạch kiểm toán năm của Kiểm toán Nhà nước; Quy định đầy đủ các nội dung, cách thức, phương pháp trao đổi thông tin giữa Kiểm toán Nhà nước khu vực và Thanh tra tỉnh, giữa các cơ quan, ban, ngành, địa phương có liên quan trong việc đánh giá, tổng kết, nhất là việc phối hợp cung cấp, trao đổi thông tin về kết quả hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Hai là, giải pháp trong tổ chức thực hiện việc phối hợp
Quá trình xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm toán, các cơ quan Thanh tra Nhà nước và Kiểm toán Nhà nước cần quan tâm xác định cụ thể đối tượng, nội dung, phạm vi, thời gian của từng cuộc thanh tra, kiểm toán. Kế hoạch thanh tra, kiểm toán sau khi ban hành cần được công khai theo quy định của pháp luật. Nếu phát hiện trong kế hoạch thanh tra của Thanh tra Nhà nước và kế hoạch kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước có sự chồng chéo về đối tượng, nội dung, phạm vi thì hai bên cần bàn bạc, trao đổi thống nhất xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm toán theo các nguyên tắc và sự thống nhất cao giữa hai cơ quan để không có sự chồng chéo về hoạt động thanh tra, kiểm toán.
Khi quy định pháp luật chưa sửa đổi, Thanh tra tỉnh cần chủ động xây dựng dự thảo kế hoạch thanh tra, trước khi có hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ để ngay khi có hướng dẫn xây dựng Kế hoạch năm của Thanh tra Chính phủ thì tiến hành nắm bắt thông tin, trao đổi với Kiểm toán Nhà nước khu vực về các nội dung cần thiết để điều chỉnh lại dự thảo Kế hoạch cho phù hợp. Qua đó, có thể ban hành sớm hoặc ít nhất là đúng hạn, thay vì đợi hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ mới tiến hành thu thập thông tin, xây dựng dự thảo thì sẽ rất gấp gáp, khó nắm bắt đầy đủ thông tin và xử lý. Kế hoạch thanh tra phải gửi ngay cho cơ quan Kiểm toán Nhà nước khu vực để kịp thời phối hợp xử lý các vướng mắc phát sinh.
Kiểm toán Nhà nước khu vực phải nghiên cứu Kế hoạch kiểm toán năm của toàn ngành, chỉ đạo ngay từ giai đoạn chuẩn bị kiểm toán phải khảo sát thu thập đầy đủ thông tin, khi lập kế hoạch kiểm toán tổng quát của cuộc kiểm toán không lựa chọn kiểm toán các đơn vị đã/đang được các đơn vị thuộc Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán, kiểm tra đối chiếu; không lựa chọn các nội dung, đơn vị đã có kết luận hoặc đang được thanh tra bộ, ngành, địa phương tiến hành thanh tra; trường hợp đặc biệt phải báo cáo lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước xem xét, quyết định khi xét duyệt kế hoạch kiểm toán tổng quát của cuộc kiểm toán.
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với Kiểm toán nhà nước khu vực trong việc xử lý trùng lặp, chồng chéo giữa hoạt động thanh tra, kiểm toán theo quy định tại khoản 10, Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước và khoản 1, Điều 55 Luật Thanh tra năm 2022.
Thanh tra tỉnh chủ trì theo dõi, nắm bắt tình hình thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra của các đơn vị; kịp thời xử lý các thông tin, phản ánh của doanh nghiệp về sự chồng chéo, điều phối các cuộc thanh tra, kiểm tra của các đơn vị, trong đó xác định nội dung, thời gian, đối tượng thanh tra, kiểm tra để tránh trùng lặp giữa các đơn vị với nhau và với các cơ quan trung ương có hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán tại địa phương, trong đó có Kiểm toán nhà nước khu vực, đảm bảo không thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm đối với doanh nghiệp, không chồng chéo giữa thanh tra với kiểm toán theo chỉ đạo tại Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Các cơ quan thanh tra ở địa phương, khi thực hiện Kế hoạch thanh tra nếu phát hiện có chồng chéo với kế hoạch của Kiểm toán nhà nước thì các đơn vị chủ động phối hợp, trao đổi thống nhất hoặc báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh (thông qua Thanh tra tỉnh) để thống nhất phương án xử lý theo quy định; báo cáo người ra quyết định thanh tra xem xét, đề nghị điều chỉnh kế hoạch thanh tra trong trường hợp cần thiết. Kết quả xử lý chồng chéo, trùng lặp được gửi cho Thanh tra tỉnh để theo dõi, tổng hợp.
Để hạn chế chồng chéo, trùng lặp khi tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm toán đột xuất, không có trong kế hoạch thì hai cơ quan cần phải có sự trao đổi kịp thời ngay từ khi dự kiến ban hành quyết định thanh tra đột xuất, kiểm toán không có trong kế hoạch để kịp thời phát hiện và thống nhất với nhau. Nếu hai cơ quan không thống nhất được thì cần phải thông qua Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán nhà nước để giải quyết.
Thanh tra tỉnh thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, tổng hợp tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán, thanh tra, rà soát tồn đọng, tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng báo cáo kết quả rà soát các cuộc thanh tra, kiểm toán đã và đang tiến hành trên địa bàn tỉnh, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị về thanh tra, kiểm toán trên địa bàn để có căn cứ trong chỉ đạo thực hiện và phối hợp trong đôn đốc thực hiện. Tổ chức các hội thảo, hội nghị có sự tham gia của các bên để cùng trao đổi về những vướng mắc đặt ra trong quá trình thực hiện các kết luận, kiến nghị để cùng tháo gỡ, nâng cao kết quả thực thiện, đảm bảo tính khả thi của các kết luận, kiến nghị về thanh tra, kiểm toán.
Các cơ quan chính quyền địa phương phối hợp tăng cường giám sát hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước khu vực, Thanh tra tỉnh nói chung và hoạt động phối hợp nói riêng để phòng ngừa, phát hiện chồng chéo, trùng lặp cũng như các tiêu cực có thể xảy ra để trao đổi, phản ánh tại các hội nghị, cuộc họp giúp hai cơ quan chấn chỉnh hoạt động và phối hợp tốt hơn trong hoạt động để giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương.
TS. Nguyễn Thị Thu Nga
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] Khoản 7, Điều 3 Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019
[2] Theo Điều 22 Luật Thanh tra năm 2022 và Theo Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV ngày 08 tháng 9 năm 2014 của Tổng Thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ
[3] Báo cáo 266/BC-TTCP ngày 24/02/2020 của TTCP về kết quả thực hiện Chị thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối vưới doanh nghiệp.
[4] Thanh tra Chính phủ và các cơ quan thanh tra, kiểm tra thuộc các bộ, ngành, căn cứ kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNN rà soát, điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra có liên quan nhằm hạn chế sự trùng lặp, chồng chéo gây khó khăn cho địa phương, doanh nghiệp và đảm bảo tính độc lập của KTNN theo quy định của pháp luật