1. Chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng
Ở đâu có quyền lực thì ở đó có yêu cầu kiểm soát quyền lực với vai trò như một công cụ điều tiết, bảo đảm cho quyền lực được sử dụng hợp lý, hiệu quả; không bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích, dẫn đến hậu quả tiêu cực. Trong lĩnh vực chính trị, vấn đề kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến lợi ích sống còn của một dân tộc, sự bền vững của một quốc gia, sự tồn vong của một chế độ.
Kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng được thực hiện chủ yếu trong nội bộ Đảng và trong bộ máy nhà nước.
a. Chính sách kiểm soát quyền lực trong nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm phòng, chống tham nhũng
Chính sách kiểm soát quyền lực của Đảng đã được bao hàm trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, được bổ sung, hoàn thiện trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng và từ những bài học cụ thể rút ra từ thực tế công tác xây dựng Đảng. Do vai trò đặc biệt của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nên hầu như mọi cơ chế, chính sách kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng cũng đồng thời liên quan đến sự kiểm soát quyền lực chính trị trên phạm vi toàn xã hội. Về cơ bản, việc kiểm soát quyền lực của Đảng hiện nay được thực hiện theo các chính sách sau:
Một là, giới hạn quyền lực của Đảng, được chế định trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 4), bởi hai nội dung: (1) Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy, Đảng là một chủ thể lãnh đạo, thực thi quyền lực chính trị của giai cấp mà nó đại diện, chứ không phải là một chủ thể thực thi quyền lực nhà nước, mặc dù đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, có vai trò quyết định trong quá trình tổ chức ra Nhà nước và thực thi quyền lực nhà nước (chúng ta sẽ bàn tới sau). Giới hạn quyền lực của Đảng là “lực lượng lãnh đạo”, có nghĩa Đảng không phải là Nhà nước, không làm thay Nhà nước, không ra các văn bản quy phạm pháp luật như Nhà nước. Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, dù trong thực tế có tác động lớn đến đâu, cũng không phải là văn bản quy phạm pháp luật, tức không có bộ máy cưỡng chế hợp pháp đi kèm đằng sau những văn bản đó, chúng tác động đến xã hội thông qua thể chế hóa, hoạt động tuyên truyền, vận động, tổ chức của Đảng, thông qua tính đúng đắn và sức hấp dẫn của cương lĩnh, đường lối, chủ trương đó. (2) “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nội dung này đặt Đảng bình đẳng trước pháp luật như mọi đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Đảng được làm những gì mà pháp luật không cấm, nhưng không thể vượt qua được khung khổ pháp luật quốc gia. Nội dung Điều 4 Hiến pháp năm 2013 còn quy định thêm, “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Hai là, nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động của Đảng theo các tiêu chí cụ thể được ghi trong Cương lĩnh và trong Điều 4 Hiến pháp 2013. Nhân dân giám sát Đảng, từ sự gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình, cho đến các hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra, việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn được thực hiện với các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các tổ chức chính trị – xã hội… Các hình thức kiểm soát này đều được chế định trong Hiến pháp, các văn bản luật và Điều lệ Đảng.
Ba là, Đảng thực hiện cơ chế “tự kiểm soát” bằng các hình thức sinh hoạt đảng, như tự phê bình và phê bình, kỷ luật đảng, hoạt động kiểm tra – giám sát của các tổ chức đảng từ chi bộ đến Trung ương theo Điều lệ Đảng.
Bốn là, kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn thực hiện bởi việc đánh giá hiệu quả lãnh đạo theo vai trò lãnh đạo được chế định bởi Hiến pháp. Đánh giá hiệu quả lãnh đạo của Đảng dựa trên ba tiêu chí cơ bản: (1) Mức độ thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra; (2) Niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; (3) Những giá trị tiến bộ mà Đảng mang đến cho nhân dân, cho đất nước, cho dân tộc.
Như vậy, chủ thể quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng là nhân dân. Công cụ kiểm soát mạnh mẽ nhất hiện nay là chế định của Hiến pháp. Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, rõ ràng về các chế định của Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng; về giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên; về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khung khổ pháp luật, về giám sát nội bộ Đảng… nhờ đó mà việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” sẽ đạt hiệu quả mong muốn.
b. Chính sách kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước nhằm phòng, chống tham nhũng
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Chế định của Hiến pháp nước ta đã nói lên vấn đề có tính nguyên lý của mọi nền dân chủ, mà Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Nguồn gốc quyền lực nhà nước là từ nhân dân. Bản thân Nhà nước, cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước không tự nhiên phát sinh ra quyền lực, mà chỉ nhận sự ủy quyền của nhân dân, thay mặt nhân dân thực thi quyền lực của nhân dân mà thôi.
Kiểm soát quyền lực Nhà nước luôn là vấn đề trung tâm của công tác kiểm soát quyền lực đối với mọi thể chế. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”. Kiểm soát quyền lực Nhà nước là vấn đề lớn, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra các khâu then chốt để có thể tìm ra giải pháp đột phá cho vấn đề này.
– Bầu cử là phương thức kiểm soát quyền lực quan trọng nhất
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thông qua bầu cử dân chủ, nhận sự ủy quyền có điều kiện và có thời hạn của nhân dân, thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân. Đây là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước quan trọng nhất, bởi vì bầu cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước liên quan đến quyền dân chủ của nhân dân và quyền lãnh đạo của Đảng. Người dân phải có quyền, trách nhiệm và điều kiện để lựa chọn những người gắn bó, có trách nhiệm với vận mệnh của nhân dân. Sau khi đã bầu, người dân còn dùng quyền giám sát và quyền bãi miễn để có thể không bầu lại trong nhiệm kỳ tới hoặc thu hồi lại quyền lực khi người đại diện không còn xứng đáng. Trong lúc đó, với tư cách là đảng chính trị, đảng cầm quyền, Đảng lựa chọn đảng viên giới thiệu ra ứng cử, cho nhân dân bầu. Như vậy, một đại biểu được bầu phải đáp ứng được sự tín nhiệm của nhân dân và của Đảng. Đảng và dân đều thực hiện sự giám sát của mình với các vị đại diện đó.
Vấn đề ở chỗ, bầu cử phải thực sự dân chủ, không hình thức. Quy trình bầu cử chủ yếu phải dựa vào nhân dân, xuất phát từ nhân dân, coi trọng sự tín nhiệm của nhân dân chứ không đơn thuần chỉ là một hình thức hợp pháp hóa “quy trình” nhân sự của Đảng. Đảng nên coi trọng sử dụng những người mà người dân thấy xứng đáng nhất, đáng tin cậy nhất và đưa người đó vào các vị trí trong bộ máy nhà nước. Việc Đảng trở thành đảng duy nhất cầm quyền, mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý đặt ra vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trở thành một nhiệm vụ kép và có ý nghĩa kép: Đảng vừa thực hiện quyền lực lãnh đạo, vừa kiểm soát quyền lực nhà nước, nhân dân vừa kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng, vừa kiểm soát quyền lực nhà nước.
Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước dù chặt chẽ đến mức “hóa thân” vào nhau, nhưng vấn đề đặt ra là không Đảng hóa Nhà nước và không Nhà nước hóa Đảng. Không để “nhầm lẫn” giữa quyền lực của Đảng và quyền lực Nhà nước, không để Đảng trùm lên Nhà nước hay Nhà nước trùm lên Đảng. Nếu xẩy ra tình trạng đó, hệ thống quyền lực sẽ bị rối loạn, tê liệt, mặc dù nhìn bên ngoài có vẻ rất tiện dụng.
– Giới hạn quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp
Nguyên lý của giới hạn quyền lực nhà nước là Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Ở Việt Nam hiện nay, “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. (Điều 8 Hiến pháp năm 2013).
Ở nước ta, tất cả các chế định của Hiến pháp đều cho thấy, Nhà nước được tổ chức theo khuynh hướng tập quyền, thực hiện chức năng công quyền. Như vậy, Nhà nước Việt Nam đã tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi các chức năng sản xuất, kinh doanh, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, tránh can thiệp sâu vào các quyền riêng tư cá nhân. Việc Hiến pháp giới hạn quyền lực nhà nước như vậy là một bước tiến so với mô hình tập trung quan liêu bao cấp trước đây, khi Nhà nước còn có thể trực tiếp tham gia sản xuất, kinh doanh, hoặc đồng nhất các đơn vị sản xuất, kinh doanh, văn hóa nghệ thuật, y tế, giáo dục với các cơ quan nhà nước, như là các cơ quan công quyền. Nhà nước có thể bảo trợ các đơn vị đó, nhưng không nên biến các cơ sở đó thành cơ quan nhà nước. Hệ lụy nhà nước hóa xã hội vẫn còn trầm trọng cho đến ngày nay. Nhà nước không thể là doanh nghiệp đi tìm kiếm lợi nhuận, hay đi biểu diễn nghệ thuật. Tuy nhiên, không loại trừ việc Nhà nước thành lập một số cơ sở phi lợi nhuận để phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện chức năng quản lý.
– Kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước
Một trong những phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước là tổ chức bộ máy nhà nước sao cho các cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc thực thi quyền lực nhà nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau để không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Qua một quá trình đổi mới lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, chúng ta đã đưa phạm trù kiểm soát quyền lực vào nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước và được hiến định. Ở nước ta, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2, khoản 3, Hiến pháp năm 2013).
Để kiểm soát được quyền lực nhà nước, việc tách rõ về kỹ thuật (chứ không phải chính trị) giữa chức năng lập pháp và hành pháp rất quan trọng. Ở nước ta, Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập” (Điều 70, Hiến pháp năm 2013). Các hình thức kiểm soát của Quốc hội khá đa dạng. Ngoài việc nghe báo cáo như đã nói, Chính phủ, các thành viên Chính phủ phải trả lời chất vấn trước Quốc hội; lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn; thành lập đoàn giám sát tối cao giám sát hoạt động của các cơ quan của Chính phủ.
– Kiểm soát của các cơ quan tư pháp đối với các cơ quan nhà nước
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có quyền xét xử đối với bất kỳ đại biểu Quốc hội, thành viên Chính phủ nào nếu họ phạm luật. Việc hiến định nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm, làm cho khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước của tòa án là rõ ràng. Ngoài chức năng công tố, viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, qua đó có thể kiểm soát, ngăn chặn được việc lạm quyền của cơ quan và công chức nhà nước, trong các hoạt động tư pháp.
– Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Nhân dân kiểm soát Nhà nước trước hết qua hệ thống bầu cử, thông qua hoàn thiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, các công cụ thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, nhân dân còn các công cụ khác, như thông qua các tổ chức có tính đại diện xã hội, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp; qua giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, qua hệ thống phương tiện truyền thông…
c. Nhận xét chung
Trên cơ sở nhận thức ngày càng rõ về vai trò, vị trí, ý nghĩa và phương pháp kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, sự hoàn thiện ngày một đầy đủ, toàn diện các cơ chế, thể chế nhằm kiểm soát quyền lực, trong thời gian vừa qua, việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng đã có nhiều biến chuyển, thu được nhiều kết quả quan trọng trên thực tế.
Thứ nhất, “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt”[1] đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong kiểm soát quyền lực của Đảng và hệ thống chính trị nói chung. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức đã nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về ý thức, trách nhiệm chính trị trong việc thực thi các nhiệm vụ công tác của Đảng. Công tác xây dựng Đảng về tổ chức đã tập trung kiện toàn, “đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; năng lực, chất lượng lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên được nâng cao”. Công tác cán bộ được đổi mới mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đã tạo được những chuyển biến tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương. Công tác phòng, chống tham nhũng “được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt,… với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm”, được “nhân dân đồng tình, ủng hộ”, đã từng bước “kiềm chế, ngăn chặn” tham nhũng[2].
Thứ hai, phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới theo hướng giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng được đổi mới; vai trò trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng được chú trọng.
Thứ ba, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[3]. Vai trò của pháp luật được đề cao; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rành mạch. Hoạt động của Quốc hội được đổi mới, có hiệu quả hơn trong xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành đổi mới theo hướng kiến tạo, tập trung vào điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, hỗ trợ phát triển. Tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp tiếp tục được kiện toàn, có tiến bộ về chất lượng hoạt động, về bảo vệ lợi ích hợp pháp và quyền con người của công dân. Tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương được sắp xếp lại, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Hiệu quả tổng hợp của những kết quả trên là những thành tựu quan trọng, nhiều dấu ấn nổi bật của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng. Trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, tác động tiêu cực của dịch bệnh và thiên tai, song nền kinh tế nước ta vẫn phát triển, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được bảo đảm cơ bản, uy tín của đất nước trên trường quốc tế được nâng lên, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường. Để đạt được những thành tựu quan trọng đó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có những đổi mới tích cực trong kiểm soát quyền lực chính trị góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, trong kiểm soát quyền lực chính trị vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm. Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” chỉ rõ: “Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế”. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng đánh giá: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”[4].
Nhìn một cách tổng thể, những hạn chế, khuyết điểm trên là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; dẫn đến tình trạng “tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn còn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”[5]; “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”[6]. Hệ quả của tất cả những hạn chế, tiêu cực đó là niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút; trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.
2. Một số giải pháp phát huy chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng
Thời gian qua Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo rất quyết liệt để tăng cường việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Không chỉ ban hành nhiều văn bản quan trọng, kịp thời tạo cơ sở pháp lý, chính trị để KSQL, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; Đảng còn chỉ đạo các cơ quan nhanh chóng xây dựng các văn bản về KSQL trong nhiều lĩnh vực; tăng cường công tác quản lý cán bộ[7]. Để tăng cường kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới Đảng ta cần tiếp tục:
– Lãnh đạo để tuyên truyền, phổ biến nhằm đổi mới nhận thức, tăng cường hiểu biết về tầm quan trọng của kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Nếu coi phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, thì phải coi kiểm soát quyền lực là một nhiệm vụ “đặc biệt” quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
– Lãnh đạo hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế về phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực như: Đấu thầu, đấu giá, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công, đầu tư công, ngân hàng, tài chính, chứng khoán…
– Lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Sự lãnh đạo của Đảng phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước, nhất là Đảng lãnh đạo về chủ trương, đường lối, không bao biện, làm thay hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước, không can thiệp trái quy định pháp luật vào hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp, tôn trọng, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án; bảo đảm độc lập của Tòa án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Nội dung KSQL tập trung vào kiểm soát việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu, cán bộ, đảng viên là người có thẩm quyền, trách nhiệm và nắm giữ quyền lực.
– Tập trung lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức đảng làm tốt một số khâu yếu trong công tác kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua, như: Công tác tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ; công tác quản lý cán bộ, đảng viên; hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội các cấp và nhân dân trong PCTN; kiểm soát việc thực hiện một số giải pháp phòng ngừa tham nhũng hiện còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao (như kiểm soát xung đột lợi ích; kiểm soát tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; xử lý trách nhiệm của người đứng đầu…).
Hai là, phòng, chống lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng thể chế
“Lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng thể chế là vấn đề đã được nhắc đến trong nhiều hội nghị, cuộc họp tổng kết về công tác PCTN. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng chỉ rõ: “Lợi ích nhóm” đơn giản là lợi ích cục bộ, móc ngoặc với nhau…, đôi bên cùng có lợi, chung nhau làm ăn vì lợi ích cục bộ. Nhưng bây giờ nhiều khi không chỉ quan hệ giữa hai bên, hai người mà đã thành “đường dây”, “sự ăn cánh” của một nhóm người mưu lợi ích riêng, làm hại lợi ích chung”. Do đó, “lợi ích nhóm” trong xây dựng thể chế chính là lợi ích cục bộ, nhằm mang lại lợi ích nhất định cho một nhóm người, ảnh hưởng đến lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân[8]. Biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật được cho là: “Lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền lực để đưa vào chương trình xây dựng pháp luật các văn bản pháp luật chỉ có lợi cho một nhóm người hoặc một cơ quan hoặc một tổ chức hoặc một địa phương hoặc một doanh nghiệp” hoặc “Tác động, gây ảnh hưởng hoặc lợi dụng, lạm dụng quyền lực để đưa chính sách chỉ có lợi cho một nhóm người hoặc một cơ quan hoặc một tổ chức hoặc một địa phương hoặc một doanh nghiệp vào các văn bản pháp luật”[9].
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 cũng có yêu cầu: “Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật”. Hiện nay, chưa có quy định về bắt buộc phải đánh giá tác động về “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong hồ sơ các dự án pháp luật. Công tác kiểm tra, giám sát đối với việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật Nhà nước còn chưa được thường xuyên, nhất là việc kiểm tra, giám sát về KSQL, phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Việc thẩm định của các ban đảng đối với các dự án pháp luật trước khi Quốc hội thông qua chủ yếu là tham gia ý kiến và cũng chưa tham gia ý kiến thực sự sâu về KSQL, phòng chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong các dự án pháp luật.
Ngày 14/12/2022, Ban Nội chính Trung ương và Đảng đoàn Quốc hội đã ký Quy chế phối hợp công tác số 03-QCPH/BNCTW-ĐĐQH quy định về nguyên tắc, nội dung, trách nhiệm, phương pháp phối hợp công tác giữa Ban Nội chính Trung ương với Đảng đoàn Quốc hội trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hai cơ quan. Có thể nói, đây là văn bản quan trọng góp phần kiểm soát “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng thể chế. Nội dung phối hợp đề cập đến việc hai cơ quan cần: “Trao đổi, thông tin về những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực nội chính, PCTN và cải cách tư pháp để đề xuất hoặc chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành”.
Để kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong xây dựng thể chế, trong thời gian tới, đề nghị Bộ Chính trị ban hành “Quy định về KSQL, phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật”. Theo đó, một số nội dung cần được quy định cụ thể như: (1) Các biểu hiện của “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; (2) Trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo về KSQL, phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; (3) Phạm vi các đề án, dự án pháp luật quan trọng, liên quan đến lĩnh vực an ninh quốc gia, nội chính, tư pháp, PCTN hoặc dư luận xã hội quan tâm cần được xin ý kiến cấp ủy trước khi ban hành; (4) Đánh giá tác động về “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong hồ sơ các dự án pháp luật là bắt buộc; (5) Cơ chế kiểm tra, giám sát đối với văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chính phủ và các biện pháp xử lý, kỷ luật về Đảng đối với việc vi phạm Quy định của Bộ Chính trị về KSQL, phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm “quyền hạn đến đâu, trách nhiệm đến đó”.
Ba là, nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong thực thi công vụ
Luật Thanh tra năm 2022 vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV đã có nhiều quy định mới về KSQL, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và PCTN, trong đó cho phép thành lập thanh tra Tổng cục, Cục thuộc Bộ thay vì mỗi bộ chỉ có một tổ chức thanh tra như Luật Thanh tra năm 2010; quy định linh hoạt về việc thành lập Thanh tra Sở; bổ sung các nội dung cụ thể và đầy đủ hơn về hoạt động thanh tra, thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra…
Trong thời gian tới, để tăng cường KSQL trong thực thi công vụ, cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện tốt Luật Thanh tra năm 2022; công tác thanh tra cần tiếp tục tăng cường về nhiều mặt, cụ thể là:
– Cơ quan thanh tra phải tăng cường kiểm soát việc thực thi quyền lực của người đứng đầu thông qua việc tập trung vào hoạt động thanh tra trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm người đứng đầu. Qua thanh tra phải kết luận, làm rõ và kiến nghị xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp đối với các sai phạm, yếu kém xảy ra, bao gồm cả việc để hành vi tham nhũng, tiêu cực xảy ra, nhất là việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực để trục lợi trong thực thi công vụ.
– Cơ quan thanh tra cần chủ động thực hiện thanh tra đột xuất khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật, nhất là khi có các căn cứ về hành vi vi phạm trong quá trình tiến hành thanh tra và sai lệch trong nội dung kết luận thanh tra.
– Tập trung thanh tra ở những nơi có vấn đề phức tạp, dư luận quan tâm, lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực; đồng thời, công tác thanh tra cần ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tham nhũng vặt”, gợi ý, nhũng nhiễu, vòi vĩnh, “lót tay”, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc.
– Thực hiện có hiệu quả vai trò là cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thông qua kiểm soát việc kê khai, công khai, giải trình và xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; qua đó, phát hiện và xử lý nghiêm đối với những trường hợp kê khai không trung thực, không giải trình được nguồn gốc tài sản tăng thêm.
Bốn là, quyết liệt hơn về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
Thời gian qua, Đảng ta đã chú trọng hoàn thiện các quy trình, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong công tác cán bộ. Tuy nhiên, “việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình. Nhiều nơi còn có tình trạng nể nang, chưa chỉ rõ những cán bộ có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực”[10]. Việc chuyển đổi vị trí công tác, kiểm soát tài sản, thu nhập, nộp lại quà tặng còn nhiều hạn chế, vướng mắc[11]. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được chú trọng; thanh tra, kiểm tra, giám sát về cán bộ và công tác cán bộ còn hạn chế.
Ngày 23/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về việc KSQL trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền, thể hiện quyết tâm xây dựng một cơ chế KSQL thật hiệu quả trong công tác cán bộ. Lần đầu tiên các hành vi chạy chức, chạy quyền gắn liền với công tác cán bộ được Đảng chỉ rõ, và gắn trách nhiệm với các chế tài xử lý cụ thể đối với những sai phạm trong công tác cán bộ. Quy định này được ban hành với kỳ vọng rất lớn, nhằm khắc phục sự tha hóa, tham nhũng quyền lực, tiêu cực trong công tác cán bộ trong thời gian qua. Để thực hiện quyết liệt hơn việc KSQL trong công tác cán bộ trong thời gian tới, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ngày càng phức tạp, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:
– Thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan tổ chức, kiểm tra, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị về thực thi quyền lực và KSQL trong công tác cán bộ. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy đảng.
– Các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát về công tác cán bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát trách nhiệm người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quyết định và người đứng đầu cơ quan tham mưu về công tác cán bộ.
– Ủy ban kiểm tra các cấp phải chủ động nắm tình hình, phát hiện và tiến hành kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, kể cả cấp ủy viên cùng cấp, người đứng đầu trong thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác cán bộ; xem xét xử lý kỷ luật hoặc đề nghị xử lý kỷ luật nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm trong công tác cán bộ.
– Tạo cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ, nhất là thực hiện nghiêm việc công khai, minh bạch về tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ. Thực hiện nghiêm nguyên tắc dân chủ trong tất cả các khâu, các bước của công tác cán bộ, phải cung cấp đầy đủ thông tin và biết lắng nghe ý kiến của cấp ủy cấp dưới, của các cấp, các ngành liên quan, của quần chúng trong cơ quan, đơn vị và của cấp ủy, chính quyền địa phương nơi cán bộ sinh sống. Quy định rõ tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý các cơ quan trong hệ thống chính trị bảo đảm tính định lượng cụ thể, tạo sự rõ ràng, khách quan, qua đó có cơ sở giám sát, kiểm tra đầy đủ, chính xác.
– Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác cán bộ phải liêm chính, trung thực, vững vàng, có trách nhiệm và tâm huyết, có kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng chuyên sâu, nắm vững chủ trương, đường lối, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác cán bộ; không nao núng và bị cám dỗ trước lợi ích hoặc các “nhóm lợi ích” muốn chi phối trong công tác cán bộ.
– Xử lý nghiêm minh, kịp thời, không có “vùng cấm” đối với các sai phạm trong công tác cán bộ, nhất là việc lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ. Nếu lạm quyền, lợi dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ đều phải được kiểm tra, thanh tra, điều tra, xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh theo kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kể cả khi đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác. “Cùng với xử lý nghiêm sai phạm phải kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín thấp theo phương châm: “Có vào, có ra, có lên, có xuống”[12].
Năm là, kiểm soát quyền lực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
Trên thực tế, nhiều quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng đã được ban hành và triển khai thực hiện; tuy nhiên, việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vẫn còn có những hạn chế; vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo để KSQL trong lĩnh vực này còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Do vậy, để nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với hoạt động tố tụng, thi hành án, bảo đảm quyền lực trong hoạt động này được thực thi đúng mục đích, đúng quy định và hiệu quả, góp phần phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đồng bộ các hành vi lợi dụng, lạm dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, Bộ Chính trị cần sớm ban hành Quy định về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực này.
Theo đó, Quy định cần hướng đến áp dụng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên có liên quan đến hoạt động tố tụng, thi hành án. Nội dung KSQL cần tập trung vào 3 vấn đề chính: (1) Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hoạt động tố tụng, thi hành án; (2) Kiểm soát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, tập thể lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng, thi hành án và (3) Kiểm soát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên là người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án.
Để tăng cường kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong hoạt động tố tụng, thi hành án, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như:
– Quốc hội cần thể chế hóa kịp thời đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong hoạt động tố tụng, thi hành án; rà soát, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền về tố tụng, thi hành án cho phù hợp với những quy định mới của Hiến pháp, pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tiễn; tổ chức giám sát có hiệu quả theo thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng, thi hành án và giám sát chặt chẽ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kiến nghị của cử tri về hoạt động tố tụng, thi hành án.
– Chính phủ cần tăng cường thanh tra, kiểm tra các nội dung thuộc trách nhiệm quản lý của nhà nước của Chính phủ trong hoạt động tố tụng, thi hành án và xử lý, kiến nghị xử lý các tập thể, cá nhân vi phạm.
– Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án; kịp thời kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và xử lý nghiêm đối với các vi phạm, nhất là các hành vi, quyết định không có căn cứ, trái pháp luật trong hoạt động tố tụng, thi hành án.
– Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng trong hoạt động tố tụng, thi hành án để phòng, chống tham nhũng; kịp thời báo cáo, tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chỉ đạo xử lý nghiêm minh các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm thượng tôn pháp luật theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Sáu là, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các địa phương trong kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Thời gian qua, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm; chọn một số khâu yếu, việc khó, có nhiều vướng mắc trong phát hiện, xử lý tham nhũng để tập trung chỉ đạo; tăng cường kiểm tra, đôn đốc những lĩnh vực, địa bàn có nguy cơ tham nhũng, tiêu cực cao để chấn chỉnh kịp thời; quan tâm chỉ đạo cả phòng, chống tham nhũng và phòng, chống tiêu cực và quyết tâm chỉ đạo xử lý triệt để nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng. Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cựcmặc dù mới được thành lập ở 63 tỉnh, thành ủy trong cả nước song đã đi vào hoạt động và đã tích cực, chủ động đưa gần 400 vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực vào theo dõi, chỉ đạo để tập trung chỉ đạo xử lý. Nhiều địa phương đã khởi tố cả Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Sở như Lào Cai, Phú Yên, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Quảng Ninh… Điều này cho thấy tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” đã giảm dần; “trên làm nghiêm dưới cũng phải làm nghiêm, không làm cũng không được”[13].
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cựccần: (1) Lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế, pháp luật, quy định về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng; đồng thời, tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định về KSQL để không thể tham nhũng, tiêu cực; (2) Lãnh đạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực, nhất là xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng, lạm dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực.
Tại địa phương, Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cựccần tiếp tục tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
– Chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng, tiêu cực, lợi dụng, lạm dụng quyền lực để trục lợi; những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật để yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có thẩm quyền thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, khắc phục sai phạm, đồng thời, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật nói chung và quy định nói riêng có liên quan đến KSQL để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
– Chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc tại địa phương.
– Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên có thẩm quyền trong xử lý khiếu nại, tố cáo về hành vi tham nhũng, tiêu cực và xử lý thông tin, tố giác, tin báo về tội phạm tham nhũng, tiêu cực.
– Chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực phức tạp, dư luận xã hội quan tâm xảy ra ở địa phương.
– Lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan chức năng xử lý kiên quyết, kịp thời những hành vi tham nhũng trong các cơ quan, đơn vị PCTN và những người bao che hành vi tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng theo tinh thần Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng là “tích cực, khẩn trương; làm rõ đến đâu xử lý đến đó; không phân biệt người có hành vi tham nhũng là ai…”; đồng thời, kiên quyết xử lý trách nhiệm người đứng đầu tham nhũng, tiêu cực hoặc để cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị mình quản lý, phụ trách lợi dụng, lạm dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực./.
ThS. Lê Đức Trung
Trưởng phòng Quản lý khoa học và Thông tin, thư viện
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, t. I, tr. 73
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, tr. 75 – 76
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, tr. 71
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, tr. 93
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, tr. 95
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, tr. 71, 93, 95
[7] Ngày 08/9/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Thông báo số 20 Kết luận về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị kỷ luật; Quy định số 80-QĐ/TW, ngày 18/8/2022 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.
[8] Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển đất nước, Nxb. CTQGST, H.2015, tr.42.
[9] Ban Nội chính Trung ương (2022): Chuyên đề “Thực trạng quy định và tổ chức thực hiện các quy định của Đảng về KSQL, phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; kiến nghị các nội dung cần đưa vào dự thảo Quy định của Bộ Chính trị, tr.1.
[11] Báo cáo chuyên đề về công tác PCTN (Công văn số 1696-CV/BCSĐCP) của Ban cán sự đảng Chính phủ, ngày 03/11/2020, tr.13.
[12] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC, ngày 18/11/2022
[13] Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Phát biểu tại cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC ngày 18/11/2022 tại Hà Nội.