Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X (2006) nhấn mạnh “Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”, “Kết hợp giám sát trong Đảng, với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân”, “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”. Quan điểm này tiếp tục được Đại hội XI (2011) ghi nhận. Báo cáo chính trị trình Đại hội XII (2016) tiếp tục khẳng định việc “Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và giám sát của nhân dân” đã được nêu từ Nghị quyết Đại hội X.
Để tăng cường giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân đối với quyền lực nhà nước nhằm phòng, chống tham nhũng, cần hoàn thiện một số giải pháp sau đây:
1. Đối với giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị – xã hội
a) Phải có sự nhận thức đúng đắn hơn vai trò và tính chất giám sát của MTTQ Việt Nam để từ đó vận dụng và phát huy đúng ý nghĩa của nó.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không mang tính xã hội thuần túy như của các tổ chức khác. Đây là giám sát với tư cách là tổ chức liên minh chính trị, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, thành tố của hệ thống chính trị – sự giám sát này mang tính quyền đại diện, quyền lực trực tiếp nhân dân. Giám sát và của MTTQ gắn chặt với việc thực thi quyền lực nhà nước, tức giám sát đối với hoạt động của Đảng cầm quyền và bộ máy nhà nước như một yếu tố nội tại trong hệ thống quyền lực chứ không hoàn toàn là giám sát bên ngoài như các tổ chức khác. Giám sát đó có “sức nặng” và phải được tiếp thu giải trình nghiêm túc. Nếu không như vậy mà cứ coi đây như một ý kiến xã hội thông thường thì không có mấy ý nghĩa.
Kinh nghiệm giám sát của Chính hiệp Trung Quốc cho thấy ở đó người ta chỉ nói tới “giám sát dân chủ” tức giám sát về bầu cử, xây dựng đường lối, chính sách, cơ chế, pháp luật chứ không có giám sát việc thực hành chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội.
b) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế cho hoạt động giám sát của các chủ thể vốn gần nhau về tính chất nhưng khác nhau về phương thức hoạt động.
Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và Nhân dân đối với bộ máy nhà nước tuy được hiến định và đề cao, song trên thực tế, cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội thực hiện quyền giám sát của mình chưa được quy định đầy đủ và cụ thể.
Cần tiếp tục thể chế hóa và chi tiết hóa cơ chế hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị xã hội, chi tiết hóa các hình thức, trình tự thủ tục tiến hành giám sát theo từng hình thức đó cũng như hậu quả pháp lý của việc giám sát của từng chủ thể (Ủy ban Mặt trận, Ban chấp hành tổ chức chính trị xã hội); thể chế hóa giám sát trực tiếp của Nhân dân (cá nhân, tập thể cộng đồng).
Đối với Mặt trận Tổ quốc, với Quyết định số 217-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội, Luật Mặt trận năm 2015 và Nghị quyết liên tịch số 403 năm 2017 quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có thể thấy, cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát đã khá đầy đủ. Cần quy định rõ và đầy đủ hơn hình thức và quy trình giám sát dưới hình thức tập hợp ý kiến của các thành viên nhất là thành viên cá nhân là những chuyên gia, nhà khoa học. Khắc phục tình trạng hình thức giám sát tập trung quá nhiều vào giám sát thi hành chính sách, pháp luật theo chương trình, kế hoạch, theo Đoàn mà sao nhãng giám sát xây dựng đường lối, chính sách, đề án – kinh tế xã hội, giám sát vụ việc khiếu nại, tố cáo… vốn là đặc trưng và là thế mạnh của Mặt trận trong việc đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
Thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc các cấp tập trung nhiều vào việc giám sát theo kế hoạch dưới hình thức Đoàn giám sát nên có hiện tượng coi nhẹ giám sát xây dựng đường lối, chính sách, đề án – kinh tế xã hội, giám sát khiếu nại, tố cáo, tư pháp, giám sát theo vụ việc, giám sát thông qua tập hợp phản ánh của thành viên và nhân dân. Đây mới thể hiện rõ bản chất của giám sát Mặt trận Tổ quốc với tư các đại diện quyền, lợi ích của nhân dân. Giám sát theo đoàn cũng quan trọng song mang tính chất giám sát chuyên môn mà Mặt trận Tổ quốc sẽ bị hạn chế.
Theo chúng tôi, cần tập trung sự giám sát vào hoạt động thực thi quyền lực của các thiết chế chính trị, bộ máy công quyền (như việc đề ra chủ trương, chính sách đúng hay chưa, tệ quan liêu, lạm dụng quyền lực, vô trách nhiệm), giám sát tư cách đạo đức của cán bộ, đảng viên (suy thoái, tha hóa, biến chất, làm giàu bất chính); giám sát tham nhũng, lãng phí (như vụ PVC) và giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo, giám sát hoạt động tư pháp (giám sát quyết định hành chính sai trái, bản án oan sai). Không nên chỉ quy đinh Mặt trận Tổ quốc nhận đơn và chuyển đơn đến cơ quan, cá nhân có thẩm quyền như hiện nay mà phải quy định rõ quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, xem xét, xác minh, làm rõ vụ việc; Trước khi, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quyết định giải quyết cần có ý kiến thống nhất của Mặt trận Tổ quốc. Đối với những vụ việc mà Mặt trận Tổ quốc có văn bản kiến nghị gửi đến mà người có thẩm quyền giải quyết không giải quyết, chậm giải quyết hoặc để kéo dài hoặc giải quyết không đúng pháp luật thì cần quy định rõ hình thức chế tài xử lý nghiêm minh; Nếu cần Mặt trận Tổ quốc có thể tổ chức giám sát việc giải quyết bằng các đoàn giám sát. Hiện nay hình thức tổ chức đoàn giám sát mới chỉ chú trọng vào giám sát lĩnh vực và giám sát định kỳ theo chương trình kế hoạch từ trước mà chưa đi vào những vụ việc cụ thể. Kinh nghiệm những năm trước đây khi có vụ việc thì Mặt trận Tổ quốc tổ chức các tổ, đoàn công tác xuống tận nơi tìm hiểu thực chất vụ việc (như vụ Bà Ba Sương ở Cần Thơ, vụ Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, vụ khiếu nại nhà 42 Liễu Giai Hà Nội…) rồi đưa ra kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền. Cách làm này mang lại hiệu quả rõ rệt.
Về xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát đối với các cơ quan, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Hiện nội dung này chưa được quy định cụ thể (nếu không muốn nói là chưa có). Cần quy định cụ thể nội dung và cơ chế giám sát các tổ chức đảng và giám sát cán bộ, đảng viên. Hiện chưa có quy định cụ thể về vấn đề giám sát các tổ chức Đảng (chỉ mới có một số quy định chung trong Quy chế 217 thể hiện Mặt trận Tổ quốc giám sát cả các cơ quan tổ chức Đảng và Nhà nước nhưng đến Luật Mặt trận thì không quy định gì thêm về giám sát tổ chức Đảng). Đối với đảng viên có Nghị quyết liên tịch số: 05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQ giữa Chính phủ – Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 21 tháng 4 năm 2006 về việc ban hành Quy chế “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư” được thực hiện thí điểm tại 5 tỉnh, thành phố và đã có tổng kết nhưng nay không thấy nhắc đến nữa. Vậy phải đẩy mạnh công tác này.
Quy định cơ chế đầy đủ hơn về giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; quy định và thực hiện nghiêm túc việc thông báo định kỳ về giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Mặt trận biết; các kiến nghị của Mặt trận cần được xem xét nghiêm túc và thông báo lại đúng thời hạn quy định.
c) Cần tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội với các cơ quan có chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra của Đảng và Nhà nước đề thực hiện quyền giám sát của mình, đồng thời cán bộ Mặt trận, các tổ chức cần phải đi sâu, sát với các tầng lớp nhân dân để lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân đối vời hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước.
d) Tiếp tục kiện toàn củng cố về tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng ở xã, phường, thị trấn.
Để thực hiện tốt Luật Phòng, chống tham nhũng, Mặt trận Tổ quốc các địa phương trong cả nước cần kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân; đồng thời phát huy dân chủ động viên nhân dân và Ban Thanh tra nhân dân đẩy mạnh các hoạt động giám sát để phòng ngừa và phát hiện những hành vi tham nhũng, lãng phí.
e) Thực hiện tốt quy chế Mặt trận giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư
Mặt trận Tổ quốc cần tích cực triển khai ở các tỉnh, thành phố làm điểm là Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang theo trình tự các bước để thực hiện các hoạt động giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư, nhằm góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong cán bộ, công chức, đảng viên.
f) Tham gia thực hiện đầy đủ những nội dung của Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần vận động nhân dân thực hiện quyền giám sát theo 11 nội dung của quy chế, nhất là giám sát đầu tư của cộng đồng, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, thu chi các loại quĩ, các khoản đóng góp của nhân dân, kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng liên quan đến cán bộ xã.
g) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thực hiện tốt công tác tiếp dân, tích cực xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến tham nhũng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần tiếp nhận phân loại đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, nghiên cứu những vụ việc bức xúc để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết và giám sát việc giải quyết của cơ quan đó, phối hợp với cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là khiếu nại, tố cáo có liên quan đến tham nhũng, lãng phí; kiến nghị xử lý nghiêm khắc những người có vi phạm; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, đồng thời giám sát việc giải quyết và trả lời của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật phòng, chống tham nhũng.
h) Thường xuyên tổng hợp những ý kiến, kiến nghị bức xúc của cử tri và nhân dân, nhất là những ý kiến, kiến nghị có liên quan đến phòng, chống tham nhũng, lãng phí để kiến nghị với cơ quan Đảng, Nhà nước có trách nhiệm xem xét, giải quyết và theo dõi giám sát việc giải quyết đó.
Ở Trung ương và các cấp ở địa phương “Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trình bày trước Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cần có mục riêng về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
i) Tăng cường mạng lưới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở. Hiện nay ở thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố đều có các tổ chức hội như : Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh, Phụ nữ, Đoàn thanh niên… Do vậy cần tăng cường hoạt động của Ban công tác Mặt trận ở cơ sở và hướng công tác Mặt trận Tổ quốc xuống cơ sở để thống nhất hành động của các hội quần chúng, tập hợp những người tiêu biểu có uy tín, thông qua họ để động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, đấu tranh với những biểu hiện tham nhũng ở các cấp chính quyền, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” có thể xảy ra.
Hiện tại, hoạt động giám sát và phản biện xã hội chưa được coi là một nhiệm vụ quan trọng và hầu như chưa được triển khai thực hiện và đánh giá tổng kết tại cấp cơ sở nhất là ở Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư. Các cuộc tổng kết chỉ tập trung vào cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư mà nay đổi thành Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh. Hầu như không có đánh giá tổng kết về hoạt động xây dựng chính quyền, giám sát và phản biện xã hội.
k) Về mặt tổ chức và hoạt động cần hoàn thiện bộ máy tổ chức, con người, đổi mới phương thức hoạt động, bổ sung kinh phí cho hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc nói chung, giám sát khiếu nại, tố cáo nói riêng. Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tăng thêm người tiêu biểu, người ngoài Đảng trong Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc. Đồng thời, tăng cường cán bộ chuyên trách có năng lực, có trình độ chuyên môn cao và mở rộng đội ngũ cộng tác viên là những chuyên gia giỏi (dưới hình thức Hội đồng tư vấn hoặc Ban tư vấn). Trong việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức, viên chức nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội cần phải được tăng cường về thẩm quyền, cơ chế tham gia và đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động thì mới có thể đảm đương được vai trò của mình trong thời kỳ mới.
2. Đối với việc giám sát trực tiếp của Nhân dân
Giám sát trực tiếp của Nhân dân đối với hoạt động của các thiết chế nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước có ý nghĩa to lớn trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động này là một phương diện của giám sát nhân dân nhằm mục đích xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và thực sự là công cụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của Nhân dân và là một kênh quan trọng nhằm bảo đảm thực thi quyền lực đúng đắn, ngăn ngừa và chống lại những hành vi tham nhũng tiêu cực, vụ lợi. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2012-2022 đã khẳng định: “Cuộc chiến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của chúng ta phải dựa vào dân, lắng nghe dân, lắng nghe dư luận để chọn lọc, tiếp thu cái đúng”. Điểm đặc trưng của giám sát này là phát huy tính tích cực của công dân, cá nhân, tập thể tham gia một cách trực tiếp vào việc giám sát, phát hiện, kiến nghị về các hành vi vi phạm, tham nhũng, tiêu cực và cả hành vi sai trái xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chính công dân một cách rộng rãi, thường xuyên. Các kiến nghị của công dân được xem xét xử lý rốt ráo góp phần nhanh chóng giải quyết, khắc phục vụ việc, không để xảy ra tích tụ bức xúc phức tạp ảnh hưởng đến đời sống chính trị của đất nước.
Để tăng cường và phát huy vai trò giám sát trực tiếp của nhân dân đối với quyền lực nhà nước nhằm phòng, chống tham nhũng cần tập trung vào những vấn đề sau đây:
a) Nhận thức đầy đủ vai trò, ý nghĩa của giám sát trực tiếp của nhân dân đối với quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; xác định rõ chủ thể, đối tượng, phương thức giám sát của loại hình giám sát trực tiếp của Nhân dân.
Lý luận Mác-Lênin rất coi trọng và đề cao sự giám sát của Nhân dân. V.I Lênin đã chỉ rõ: “thanh tra (giám sát)1 và kiểm tra là cái chính cần phải “sắp đặt” để cho sự hoạt động đúng đắn của giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa“2, “từ nay cho tới khi có giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, thì chủ nghĩa xã hội cần phải đặt dưới sự giám sát chặt chẽ từ phía Nhà nước và xã hội“3 và rằng: “Kiểm tra và thanh tra, cái cần thiết cho quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chỉ có thể là thanh – kiểm tra của quần chúng”4. Như vậy, trong quan niệm của Lênin, sức mạnh của thanh tra chính là ở tính quần chúng rộng rãi của nó, thanh tra (giám sát) trước hết là thanh tra (giám sát) từ phía quần chúng lao động, Theo tư tưởng này, đương thời Lê nin đã tổ chức ra tổ chức thanh tra công nông (Рабкрин). Trong những năm sau này, trong bộ máy nhà nước Xô viết, hoạt động thanh tra được tiến hành như là một loại hoạt động nhà nước độc lập nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ cương thông qua hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước (Госинcпекция). Đến năm 1965, với quan điểm nâng cao tính giám sát nhân dân theo di huấn của Lênin và được Nghị quyết Hội nghị trung ương tháng 12 của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô quyết định, thêm một hệ thống cơ quan thanh tra mới – Thanh tra nhân dân (Народный контроль) – được thành lập. Đây là hệ thống thanh tra vừa mang tính nhà nước vừa mang tính xã hội bao gồm Uỷ ban Thanh tra nhân dân Liên Xô, Uỷ ban Thanh tra nhân dân các nước cộng hoà, Uỷ ban Thanh tra nhân dân các tỉnh, (vùng), huyện, các Ban thanh tra nhân dân ở xã và Nhóm thanh tra nhân dân cơ sở đặt dưới sự lãnh đạo của hai cơ quan: Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô.
Vai trò của Nhân dân về giám sát hoạt động của bộ máy Đảng, nhà nước, cán bộ, công chức, đảng viên đã được ghi nhận tại nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước. Tiếp theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương (khoá VII năm 1991) yêu cầu “… Nhà nước phải dựa vào Mặt trận Tồ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước”, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) chỉ rõ: “Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân” (Văn kiện Đại hội X, tr. 304), “Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân” (Văn kiện Đại hội X, tr. 125), “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội” (Văn kiện Đại hội X,, tr. 124). Hiến pháp năm 2013 ghi nhận trực tiếp quyền giám sát của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước : “…Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân;…” (Đ. 8).
Nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với Nhà nước ngoài việc thông qua các thiết chế đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tham gia quản lý nhà nước bằng các hình thức được quy định như: bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước; đóng góp ý kiến xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đất nước; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp và pháp luật thì điều quan trọng thể hiện rõ quyền, trách nhiệm và ý thức công dân là việc trực tiếp phát hiện, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật, những hành vi tham nhũng, tiêu cực của cơ quan, người có chức vụ trong bộ máy nhà nước; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo trước các cấp có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức. Đây chính là tinh thần mới của Hiến pháp về tăng cường ý thức trách nhiệm, vai trò làm chủ của Nhân dân trực tiếp (cá nhân, công dân, cộng đồng, tập thể) chứ không phải nhân dân chung chung như trước: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28 Hiến pháp năm 2013).
Với vai trò như vậy, song trên thực tế hình thức giám sát này vẫn chưa được phát huy đầy đủ. Nói Nhân dân là một khái niệm rất chung, cần phải chỉ rõ chủ thể (cá nhân, cộng đồng) có quyền thực hiện, cơ chế, hình thức để thực hiện. Ngoài những phương thức thanh tra nhân dân, giám sát đầu tư của cộng đồng, giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư đã và đang thực hiện thì cần nghiên cứu quy định thêm các hình thức như hội nghị giám sát, tập hợp, tổng hợp phát hiện kiến nghị, tố giác của cá nhân, chuyên gia. Các hội nghị này cũng nên do Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, chủ trì, tổng hợp và phản ánh.
Cùng với ghi nhận và đề cao việc Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền giám sát, Hiến pháp và pháp luật cần quy định rõ một cơ chế trách nhiệm giải trình, công bố thông tin liên quan của các cơ quan nhà nước.
b) Khuyến khích Nhân dân khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm, tham nhũng; có cơ chế bảo vệ người tố cáo, tố giác.
Đánh giá việc thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo cho thấy người dân chủ yếu chỉ thực hiện quyền khiếu nại mà ít tố cáo. Có lẽ tố cáo phần nhiều là không liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người tố cáo, hơn nữa cách thức xem xét xử lý các tố cáo hiện còn gây nhiều nghi ngại. Để đẩy mạnh hoạt động này, Nhà nước cần có quy định cụ thể hơn nữa để nhân dân thực hiện quyền tố cáo như có thủ tục xem xét tố cáo một cách kịp thời, bảo vệ người tố cáo.
c) Mở rộng hơn nữa sự công khai, minh bạch, trách nhiệm cung cấp thông tin, giải trình của các thiết chế quyền lực, bảo đảm sự liên kết trách nhiệm giữa các cơ cấu quyền lực với Nhân dân.
Để phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử cần mở rộng phạm vi tiếp xúc cử tri (không bó hẹp trong đại diện cử tri như hiện nay), tăng thời lượng truyền hình trực tiếp các kỳ họp Quốc hội và Hội đồng nhân dân, mở rộng khả năng nhân dân được dự các phiên họp của các cơ quan đại diện. Đặc biệt nên khôi phục lại chế độ uỷ nhiệm của cử tri11; quy định rõ các điều kiện khi nào thì cơ quan dân cử thực hiện việc miễn nhiệm đại biểu, khi nào thì đưa ra cho cử tri bãi miễn vì từ khi pháp luật quy định hai hình thức bãi nhiệm đại biểu thì hầu như không còn thấy việc đưa ra cử tri bãi miễn nữa.
d) Phát huy vai trò của thực hiện dân chủ ở cơ sở với phòng, chống tham nhũng.
Trước mắt cần tập trung phát huy quyền giám sát nhân dân ở cơ sở. Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, hình thức gtiám sát cán bộ công chức, đảng viên ở khu dân cư trên thực tế đã được chứng minh là công cụ hữu hiệu để nhân dân giám sát ở cơ sở cần được đẩy mạnh hoạt động nhất là trong các lĩnh vực liên quan đến dân sinh, dân chủ, lợi ích của người dân, việc thực thi chính sách, pháp luật, các hoạt động kinh tế, đầu tư tại địa phương;
e) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế để Nhân dân giám sát
Để phát huy hơn nữa hoạt động giám sát của nhân dân, về mặt pháp luật cần có cơ chế pháp lý đầy đủ. Có lẽ đã đến lúc nghiên cứu ban hành Luật Giám sát của Nhân dân quy định về đối tượng, hình thức, nội dung, trình tự, thủ tục nhân dân trực tiếp giám sát bộ máy Đảng, chính quyền, giám sát cán bộ, công chức đảng viên. Luật tập trung quy định về các hình thức giám sát trực tiếp của Nhân dân như thông qua việc tập hợp ý kiến giám sát của cá nhân, tập thể, cộng đồng, chuyên gia, nhà khoa học về những sai phạm trong quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật, công trình, dự án (dưới hình thức các cuộc hội nghị do Mặt trận chủ trì giống như hội nghị tiếp xúc cử tri); lấy ý kiến về công khai tài sản của cán bộ, công chức v.v…); quy định rõ sự phối hợp chặt chẽ giữa giám sát của Mặt trận, đoàn thể với giám sát của nhân dân; quy định trách nhiệm của Mặt trận trong việc tổ chức, hỗ trợ các hình thức giám sát này. Nhân dân cần chủ động đề xuất với Mặt trận để giám sát, còn Mặt trận cũng phải chủ động lấy ý kiến, tập hợp ý kiến của nhân dân. Nghiên cứu lại vị trí, vai trò của Thanh tra nhân dân theo hướng không còn là tổ chức vừa “thanh tra giúp thủ trưởng” vừa là “giám sát nhân dân đối với cơ quan, thủ trưởng” rất hình thức và không hiệu quả mà chỉ còn là một hình thức giám sát nhân dân ở cơ sở. Từ đây, Thanh tra nhân dân (hay với một tên mới phù hợp hơn) và những hình thức giám sát nhân dân khác nữa (như giám sát đầu tư của cộng đồng; giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư) nên chuyển về quy định trong Luật này.
Chúng tôi xin đề xuất nội dung (đối tượng) điều chỉnh của Luật Giám sát của Nhân dân ở những nét chính sau:
Một là, quy định về khái niệm, tính chất, nguyên tắc giám sát của Nhân dân
Giám sát của Nhân dân là việc theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc ban hành, thực thi chính sách, pháp luật. Giám sát của Nhân dân là giám sát mang tính nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Nguyên tắc giám sát của Nhân dân:
– Thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân
– Góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
– Mang tính tổ chức
– Mang tính xây dựng
Hai là, quy định về đối tượng, nội dung giám sát của Nhân dân
Nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động các cơ quan nhà nước (các cơ quan thực hiện lập pháp, hành pháp, tư pháp), đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, giám sát cán bộ, đảng viên ở khu dân cư. Nội dung giám sát nhằm vào các hoạt thực thi quyền lực như: xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật mà trước hết là các đường lối, chính sách pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật; giám sát tư cách, đạo đức của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư.
Ba là, quy định hình thức, trình tự thực hiện giám sát của Nhân dân
Đây là nội dung quan trọng mà Luật phải tập trung xử lý. Lâu nay, các quyền tham gia quản lý nhà nước nói chung quyền giám sát, phản biện xã hội nói riêng của công dân còn khó thực hiện vì một nguyên nhân cơ bản là thiếu cơ chế, hình thức tiến hành. Vậy Luật cần quy định rõ cơ chế đó nhất là các hình thức thực hiện giám sát. Ở đây bao gồm các hình thức điển hình sẽ được thể chế hóa và cả những hình thức đã được quy định rải rác ở các luật chuyên ngành cần chuyển về đây để bảo đảm tính hệ thống, tổng thể:
– Tập hợp ý kiến, phản ánh ý kiến giám sát của Nhân dân (cá nhân, cộng đồng) qua các hình thức như tiếp dân, đối thoại, hội nghị giám sát và đặt hòm thư tiếp nhận phản ánh.
Tập hợp, phản ánh ý kiến giám sát của Nhân dân chính là sự thu thập, tổng hợp, truyền tải những phát hiện, yêu cầu, mong muốn, nhận xét, đánh giá của nhân dân đến những người được nhân dân uỷ nhiệm, giao phó trọng trách điều hành, quản lý đất nước. Những phát hiện, ý kiến, kiến nghị, của Nhân dân nhất là về những chính sách, việc làm sai trái của các thiết chế quyền lực, những hành vi tham nhũng, vi phạm đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên có ý nghĩa rất lớn. Nói tổng quát là lắng nghe dân. Đây là phương thức rõ rệt nhất thể hiện quyền giám sát trực tiếp của Nhân dân. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Cán bộ tốt hay xấu, cứ hỏi dân là biết hết”. Chính tai mắt Nhân dân đã góp cho tổ chức Đảng một cái nhìn khách quan, chân thật để có những giải pháp lãnh đạo hợp lòng dân, đúng ý Đảng. Ngoài cơ chế tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của Nhân dân thì việc tổ chức các hội nghị giám sát (giống như hội nghị cử tri), đặt hòm thư phản ánh để thu thập ý kiến, phát hiện của Nhân dân là phương thức cần phải tăng cường và mở rộng. Dự Luật cần quy định đày đủ phương thức giám sát này có sự hỗ trợ, chủ trì của các thiết chế khác đặc biệt là vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.
– Thông qua hoạt động Ban giám sát đầu tư của cộng đồng và Ban thanh tra (hay Ban giám sát) nhân dân
Hai hình thức của hoạt động giám sát này đã được quy định và thực hiện khá hiệu quả những năm gần đây và vừa rồi được đưa về quy định chung tại Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022. Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân ở cấp xã và Ban giám sát đầu tư của cộng đồng ở khu dân cư do nhân dân ở làng, thôn, ấp, bản, khu dân cư tự tổ chức dưới sự chỉ đạo của Ban công tác Mặt trận đóng vai trò nòng cốt trong việc giám sát thực hiện chính sách, pháp luật ở cơ sở. Qua giám sát việc triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở cho thấy trách nhiệm của Ban Thanh tra nhân dân hết sức quan trọng, giúp chính quyền địa phương khắc phục những thiếu sót trong công tác quản lý, chấn chỉnh những vấn đề tiêu cực của cán bộ, góp phần xây dựng chính quyền ở cơ sở trong sạch vững mạnh. Hoạt động giám sát đầu tư của cộng đồng bảo đảm cho các hoạt động đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với việc đầu tư các công trình liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế – xã hội của địa bàn dân cư được tiến hành đúng quy định, giấy phép đầu tư, bảo đảm chất lượng công trình. Luật mới sẽ pháp điển hóa quy định về giám sát đầu tư của cộng đồng và chuyển quy định về Ban thanh tra nhân dân từ Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở về đây.
– Thông qua ý kiến giám sát, phản biện của cá nhân chuyên gia, trí thức.
Giám sát của các cá nhân chuyên gia, nhà khoa học, trí thức là những người am hiểu thực tiễn đời sống chính trị-xã hội của đất nước nên sẽ rất hiệu quả khi phát huy hình thức giám sát này. Họ tham gia giám sát thi hành chính sách pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tham gia phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo của công giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật trên địa bàn dân cư. Thông qua những phát hiện trong ban hành, thực hiện chính sách, pháp luật đưa ra yêu cầu kiến nghị đối với các cấp có thẩm quyền giải quyết đúng đắn vụ việc, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tư vấn, tham vấn trong việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết, theo dõi, đôn đốc và phối hợp giải quyết các đơn thư đó, kiền nghị xử lý những trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Đi kèm từng hình thức giám sát là trình tự, thủ tục tiến hành. Đặc biệt quy định rõ vai trò, quyền, trách nhiệm của tổ chức chủ trì hỗ trợ Nhân dân giám sát từ việc tổ chức thu thập, tổng hợp ý kiến, phản ánh, kiến nghị đến các cấp có thẩm quyền và thúc đẩy việc tiếp thu, giải quyết kiến nghị giám sát.
Bốn là, quy định sự phối hợp, tạo điều kiện trong giám sát của Nhân dân
Quy định các vấn đề sau:
– Sự chủ trì, phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì các cuộc họp tập hợp, tổng hợp, phản ánh ý kiến giám sát của cá nhân, cộng đồng; Chủ trì hoạt động giám sát của Thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tự của cộng đồng. (Kinh nghiệm Liên Xô cũ: Do Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và các cấp tương ứng chỉ đạo).
– Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân tạo điều kiện để Nhân dân giám sát
+ Xem xét, giải quyết và trả lời những nội dung kiến nghị sau giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
+Thực hiện kết luận, quyết định giải quyết của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành liên quan đến những nội dung kiến nghị giám sát của Nhân dân thông qua ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
– Trách nhiệm của các cơ quan quyền lực, hành chính các cấp về theo dõi, giám sát sự tuân thủ, tạo điều kiện để Nhân dân giám sát sự tuân thủ của cơ quan, tổ chức bị giám sát.
+ Theo dõi, kịp thời uốn nắn, xử lý các cơ quan tổ chức, cá nhân cản trở việc giám sát của Nhân dân.
+ Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ người dân tố cáo, tố giác.
Năm là, quy định hậu quả pháp lý sau giám sát
Theo đúng tinh thần của Điều 28 Hiến pháp, việc xử lý các ý kiến, kiến nghị giám sát phải công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Trường hợp cấp trực tiếp không giải quyết hoặc giải quyết chưa đúng, có biểu hiện bao che thì có quyền đề nghị lên cấp cao hơn để xem xét, giải quyết. Trong trường hợp không tán thành với việc trả lời hoặc không nhận được văn bản trả lời thì có quyền thông báo lên tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết và trả lời.
Tương tự, để phát huy sự đề xuất, kiến nghị của nhân dân cần sớm ban hành Luật Dân nguyện, quy định rõ trách nhiệm và thủ tục xem xét thực hiện các kiến nghị của nhân dân qua đó phát hiện, xử lý các vi phạm, tham nhũng của bộ máy quyền lực./.
PGS. TS. Bùi Xuân Đức
Ủy viên Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt nam
1 Trong các tác phẩm kinh điển của V.I. Lênin và sách báo pháp lý Liên Xô và Nga, xung quanh vấn đề này đã sử dung nhiều thuật ngữ khác nhau như : контроль, государственный контроль, контрольо-надзорная деятельность mà nội hàm gồm cả nghĩa giám sát, kiểm tra – TG
2 V.I.Lênin. Toàn tập, T.33, tr. 101, Tiếng Nga
3 V.I.Lênin. Toàn tập, T.36, tr. 265, Tiếng Nga
4 V.I.Lênin. Toàn tập, T.35, tr. 200, Tiếng Nga
11 Là những ý kiến, nguyện vọng chung của cử tri tại các cuộc tiếp xúc cử tri được nêu thành nghị quyết để người sẽ dược bầu làm đại biểu (hoặc đại biểu) phải thực hiện. Hiện nay chỉ mới có hình thức ứng cử viên nêu chương trình hành động – một dạng lời hứa – và những lời hứa của đại biểu chưa có tính ràng buộc nêu hiệu quả thấp – TG