Câu hỏi

1.00KTiếp dân , Giải quyết KNTC
0
0 bình luận

Thanh tra nhận được đơn tố cáo của công dân A, nội dung đơn: Tố cáo Chủ tịch UBND xã B v/v không giải quyết đúng đơn đúng quy định của pháp luật.

Cụ thể như sau: Hộ bà A có thửa đất nông nghiệp diện tích 461,5m² là đất đã được cấp GCN QSDĐ. Năm 2008 nhà nước đã thu hồi 403,1m², còn lại 58,5m². bà A đã cho ông Dương Văn P (là người cùng thôn) mượn để trồng hoa màu nhưng đến nay bà A đòi lại thì ông P không trả. Bà A có cung cấp cho UBND xã bản phô tô các giấy tờ liên quan đến thửa đất nêu trên như: Giấy chứng nhận QSDĐ của bà A; Bảng tổng hợp phương án bồi thường GPMB đất nông nghiệp; Bản kê khai QSDĐ và tài sản trên đất bị thu hồi, Quyết định thu hồi đất của UBND huyện Tam Dương số 2920/QĐ-UBND ngày 03/9/2008.

Sau khi nhận được đơn của bà A, UBND xã B xác định đất đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà A, nên đây là vụ việc tranh chấp dân sự. Căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai 2013 ngày 04/8/2022, UBND xã B đã tổ chức hội nghị hòa giải tranh chấp giữa bà A với hộ ông P nhưng không thành do các các bên đều có quan điểm khác nhau. Kết thúc hòa giải UBND xã đã 02 lần có văn bản trả lời bà A theo nội dung trên.

Ngày 13/10/2022, UBND xã B nhận được đơn tố cáo của bà A, bà A tố cáo về việc ông P có hành vi cố tình muốn chiếm đoạt diện tích đất 58,5m đất nông nghiệp của gia đình bà A. Sau khi xem xét đơn tố cáo của bà A và căn cứ quy định tại Điều 2, Luật Tố cáo năm 2018 thì đối tượng và hành vi bị tố cáo theo đơn của bà A không thuộc quy định giải quyết của Luật Tố cáo. Vụ việc của bà A với ông P là vụ việc tranh chấp dân sự, đã được UBND xã hòa giải và hướng dẫn bà P đến Tòa án được xem xét giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật. UBND xã đã ban hành thông báo số 85/TB-UBND ngày 25/10/2022 về việc không thụ lý đơn tố cáo của công dân, gửi bà A được biết.

Sau đó bà A gửi Thanh tra huyện để tố cáo: Hành vi của ông P là hành vi chiếm đất của gia đình bà A. Tố cáo Chủ tịch UBND xã B v/v không giải quyết đúng đơn đúng quy định của pháp luật.

Vậy cho e hỏi, hành vi của ông P là hành vi chiếm đất của gia đình bà A hay là là hành vi tranh chấp đất đai của ông P với gia đình bà A?

Có hay không việc Chủ tịch UBND xã B né tránh, cố ý xử lý vụ việc của bà A với ông P là vụ việc tranh chấp đất đai.

xuất bản

Trường Cán bộ Thanh tra trả lời

0

Căn cứ vào khoản 2 Điều 3 Nghị định 91/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định: “Chiếm đất là việc sử dụng đất thuộc một trong các trường hợp sau đây: Tự ý sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép; Tự ý sử dụng đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác mà không được tổ chức, cá nhân đó cho phép; Sử dụng đất trên thực địa mà chưa hoàn thành các thủ tục giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật…”

Theo như các quy định trên, chiếm đất là việc người sử dụng đất thực hiện các hành vi như tự ý sử dụng đất không phải thuộc quyền sử dụng của mình khi không được cho phép.

Như vậy, ban đầu bà A cho ông P mượn đất là có sự đồng ý của của A, sau đó bà A đòi lại đất ông P không trả thì đây không phải là hành vi ông P chiếm đất của gia đình bà A mà đây là hành vi tranh chấp đất đai của ông P với gia đình bà A. Vì theo dữ kiện nêu trên thì đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ gia đình bà A nên căn cứ vào Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 UBND xã B đã tiến hành hòa giải và hướng dẫn bà A khởi kiện ra Tòa án để giải quyết vụ án dân sự tranh chấp đất đai là đúng quy định.

Do vậy, Thanh tra huyện tham mưu vụ việc trên là tranh chấp đất đai giữa bà A và ông P.

UBND xã B cũng đã tổ chức hòa giải tranh chấp theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 nên không có việc Chủ tịch UBND xã B né tránh, cố ý xử lý vụ việc của bà A với ông P là vụ việc tranh chấp đất đai.

xuất bản
Bình luận

Theme Settings