1. Quan điểm về minh bạch và trách nhiệm giải trình trong kiểm soát quyền lực nhằm phòng chống tham nhũng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, minh bạch (cùng với công khai), trách nhiệm giải trình trong kiểm soát quyền lực, PCTN đã từng bước được chủ trương, chính sách, pháp luật hóa. Đây cũng là những chủ đề ngày càng được nhận thức, nghiên cứu, bàn luận bởi các lực lượng khác nhau trong xã hội. Quan điểm về về minh bạch và trách nhiệm giải trình trong kiểm soát quyền lực, PCTN ở nước ta vì vậy cũng dần định hình, phát triển. Một cách tương đối, các quan điểm dễ nhận diện, đang thịnh hành có thể kể đến như:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống lý luận về minh bạch, trách nhiệm giải trình (trong tương quan với phát triển nhận thức về vị trí, vai trò của cuộc đấu tranh PCTN) góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ngày càng vững mạnh.
Từ nhận thức bước đầu: “đấu tranh PCTN là một bộ phận cấu thành quan trọng của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay”; qua 35 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về PCTN ngày càng hoàn thiện, xem đó là “Một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Do đó, phát triển hệ thống lý luận về minh bạch, trách nhiệm giải trình vừa là điểm đầu, vừa là điểm cuối, tạo nền tảng tư tưởng vững chắc cho việc triển khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực tiễn.
Minh bạch và trách nhiệm giải trình trong kiểm soát quyền lực phải được tăng cường hơn nữa trong quá trình hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương PCTN của Đảng.
Một cách gián tiếp, trong các văn kiện điển hình như Nghị quyết số 14/NQ/TW ngày 15-5-1996, Nghị quyết số 04 văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI, XII, và XIII, tăng cường vai trò của Đảng trong PCTN cũng bao hàm yêu cầu tăng cường lãnh đạo thực hiện việc minh bạch và trách nhiệm giải trình nhằm kiểm soát quyền lực. Cụ thể, các văn kiện xác định: các cấp ủy, tổ chức đảng phải coi PCTN là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; tăng cường trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; Cơ quan kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức năng PCTN của Nhà nước để kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên có vi phạm pháp luật về PCTN.
Minh bạch và trách nhiệm giải trình là giải pháp và nhiệm vụ để kiểm soát quyền lực nhằm PCTN.
Nghị quyết số 04-NQ/TW/2006 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã khẳng định công khai, minh bạch là một nhiệm vụ đồng thời là giải pháp để PCTN: “Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị…”.
Phát biểu tại hội nghị xúc tiến đầu tư tại tỉnh Hà Nam vào giữa năm 2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc từng phát biểu: “không có gì kiểm soát quyền lực tốt bằng cách minh bạch thông tin cho báo chí và người dân giám sát”.
Một trong những nội dung cụ thể theo quan điểm của Đảng tại Nghị quyết Đại hội Đảng XIII là đẩy mạnh kiểm soát quyền lực để PCTN. Văn kiện nhấn mạnh, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình là điều kiện đầu tiên để kiểm soát quyền lực, bảo đảm quyền lực được vận hành đúng đắn, không bị “tha hoá”.
Minh bạch và trách nhiệm giải trình để kiểm soát quyền lực phải được thể chế hóa khẩn trương, đồng bộ, tạo nền tảng pháp lý căn bản để hiện thực hóa chủ trương và chỉ đạo PCTN của Đảng.
Quan điểm chủ đạo này đã được Đảng đề cập trực tiếp trong Kết luận số 12-KL/TW, ngày 06/4/2022 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, tiêu cực: “Khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế… trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch”. Hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Bổ sung quy định bảo đảm minh bạch quá trình ra quyết định, bao gồm cả chính sách, văn bản quy phạm pháp luật và quyết định giải quyết một vụ việc cụ thể của cơ quan nhà nước các cấp. Xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai. Hoàn thiện, công khai hóa và thực hiện đúng các chế độ, định mức, tiêu chuẩn sử dụng lao động, ngân sách và tài sản công”[1].
Phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Thể chế nói chung, thể chế về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng là yếu tố cơ bản, nền tảng, có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi tham nhũng, tiêu cực … Phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng chính sách, pháp luật về quản lý kinh tế – xã hội để hạn chế sự tác động tiêu cực của “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ”. Tổng Bí thư nêu rõ: “Quyền lực luôn có nguy cơ bị “tha hóa”, tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, cho nên phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực … kiểm soát để bảo đảm quyền lực được vận hành công khai, minh bạch”.
Tại Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ XIII, cơ chế phòng ngừa, răn đe để kiểm soát tham nhũng được Đảng nhấn mạnh “Khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng”[2].
Theo đó, minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình đã được trực tiếp và gián tiếp ghi nhận trong hàng loạt đạo luật từ Hiến pháp, Luật Tố tụng hành chính, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật Viên chức, Luật Công chức, Luật Thanh tra, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Tiếp công dân… cho đến các văn bản dưới luật.
Điển hình, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 hướng đến xây dựng một cơ chế phòng ngừa tham nhũng sâu rộng, góp phần tạo lập một cơ chế quản lý nhà nước, xã hội công khai, minh bạch để “không thể tham nhũng”. Các quy định về nguyên tắc, nội dung, hình thức, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng đã được quy định cụ thể trong Luật năm 2018. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Những văn bản cốt lõi này đã ít nhiều tạo nên một cơ chế cho việc công khai, minh bạch nhằm kiểm soát quyền lực PCTN.
Thực hiện nghiêm và hiệu quả chính sách pháp luật về công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình nhằm kiểm soát quyền lực là yêu cầu gắn liền với hoàn thiện thể chế.
Ban chấp hành Trung ương Đảng quán triệt, bên cạnh hoàn thiện thể chế, cần “thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch”, xem đó là điều kiện cần để nâng cao hiệu quả PCTN.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong Hội nghị tổng kết 10 năm PCTN đã coi việc “tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị” là một trong 4 phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp để PCTN.
Quan điểm trên được cụ thể hóa trong Chiến lược quốc gia về PCTN đến năm 2020 là: “Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện cơ chế về trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý”.
Văn kiện Đại hội Đảng XIII nhấn mạnh phương hướng tổng quát về thực hiện pháp luật PCTN, trong đó có pháp luật về minh bạch và trách nhiệm giải trình: “Triển khai đồng bộ có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Thực hiện quyết liệt nghiêm minh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng”[3] và, “Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ có hiệu quả về kê khai, kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp”[4].
Minh bạch và trách nhiệm giải trình nhằm kiểm soát quyền lực PCTN thuộc về nhiều chủ thể trong xã hội, nhưng cốt lõi phải tập trung vào trách nhiệm giải trình nhà nước.
Có thể thấy, pháp luật hiện hành đang đề cập đến hầu như tất cả các loại trách nhiệm giải trình gồm cả trách nhiệm giải trình trong hệ thống (qua các đạo luật căn bản như Luật PCTN, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân…); trách nhiệm giải trình chính trị (trách nhiệm của mỗi đảng viên, cơ quan, tổ chức trước Đảng); trách nhiệm giải trình trước xã hội (Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin…); trách nhiệm giải trình nghề nghiệp, thậm chí, Luật xử lý vi phạm hành chính, điều 6 còn ghi nhận trách nhiệm giải trình của người dân.
Tuy vậy, Việt Nam vẫn coi minh bạch, trách nhiệm giải trình nhà nước là chủ đạo với các nhóm như: trách nhiệm giải trình của cơ quan dân cử, của các cơ quan trong nội bộ hành chính; của các cơ quan tư pháp và quy định giải trình, công khai trong từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động công quyền từ đất đai, đầu tư, bảo vệ môi trường… Định hướng này là cần thiết trong bối cảnh tham nhũng ở khu vực công vẫn đang chiếm ưu thế và gây thiệt hại lớn. Tuy vậy, các loại trách nhiệm giải trình còn lại cũng cần được quan tâm một cách tổng thể, bởi nó tạo thành một liên minh, hỗ trợ và kích hoạt toàn bộ quá trình kiểm soát quyền lực.
Minh bạch và trách nhiệm giải trình là trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, nhằm giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Quan điểm này đã được thể hiện khá rõ trong pháp luật Việt Nam, cụ thể, phạm vi các vấn đề, lĩnh vực mà cơ quan nhà nước có trách nhiệm minh bạch, công khai trong hoạt động, bảo đảm quyền được biết của công dân đã được ghi nhận. Điển hình như quy định về các lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai để dân biết, các quy định về công khai trong Luật Kế toán, trong Luật Kiểm toán, Luật PCTN… Các quy định trách nhiệm cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình của chủ thể công quyền khi được yêu cầu.
Pháp luật hiện hành cũng đặc biệt nhấn mạnh việc bảo đảm và tăng cường công khai, minh bạch trong quản lý hành chính là một nội dung hết sức quan trọng, nhằm mục đích kiểm soát quyền lực, nâng cao hiệu quả phòng, ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng.
Quyền tiếp cận thông tin là một trong những điều kiện nền tảng để có minh bạch và trách nhiệm giải trình nhằm kiểm soát quyền lực PCTN.
Từ rất sớm, Đảng đã có chủ trương, chính sách về “mở rộng dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. Đây chính là cơ sở chính trị quan trọng cho sự phát triển của quyền tiếp cận thông tin.
Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 11 đã thông qua Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, như vậy, đến nay, Việt Nam đã có một cơ chế nhất định cho quyền tiếp cận thông tin. Cụ thể, một hệ thống các kênh tiếp cận thông tin về hoạt động của công quyền cho công chúng được xác lập có khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của nhiều đối tượng; pháp luật đã khẳng định quyền của công chúng được yêu cầu cung cấp thông tin và nghĩa vụ đáp ứng của cơ quan công cộng; đã quy định việc giải quyết khiếu nại và xác định về nguyên tắc xử lý vi phạm quyền tiếp cận thông tin[5]… Để minh bạch và giải trình hiệu quả, phải quan tâm đặc biệt đến việc thông tin và đáp ứng yêu cầu được thông tin của các lực lượng xã hội. Quyền tiếp cận thông tin, theo đó phải được đặt trong tương quan với nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước. Bởi, quyền tiếp cận thông tin là một quyền không tuyệt đối, tính chất của nó phụ thuộc nhiều vào cách thức đáp ứng quyền của các chủ thể công cộng, do đó, phải có cơ chế thỏa đáng để việc giới hạn quyền của nhà nước không ảnh hưởng đến quyền tự do thông tin cần thiết của người dân.
Minh bạch và trách nhiệm giải trình để kiểm soát quyền lực PCTN phải được triển khai trên tinh thần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội cùng với cơ chế bảo vệ, động viên, khen thưởng kịp thời các chủ thể tích cực tham gia PCTN.
Nằm trong chủ trương chung của Đảng về PCTN, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu minh bạch và trách nhiệm giải trình phải dựa trên nền tảng và tập hợp được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình, các doanh nghiệp và nhân dân tham gia, là sự nghiệp của toàn dân: “Nâng cao vai trò phát huy tính tích cực, chủ động và phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, nhân dân, doanh nghiệp, báo chí trong phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng”[6].
Cùng với đó, Đảng cũng nhấn mạnh việc tích cực hoàn thiện cơ chế và triển khai hiệu quả việc bảo vệ, động viên, khuyến khích, khen thưởng những tổ chức, cá nhân đứng lên tố cáo hành vi tham nhũng: “Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí.”
Có chế độ khen thưởng xứng đáng, đề bạt kịp thời những cán bộ, công chức có thành tích trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, cần sớm có cơ chế bảo vệ đối với những cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cũng như gia đình họ…
Như vậy, dù chưa thể bao quát hết được các quan điểm hiện nay ở Việt Nam về minh bạch và trách nhiệm giải trình, nhưng có thể thấy, đó là những quan điểm căn bản, với các chiều cạnh khác nhau, tạo cơ sở nền tảng cho việc nhận thức, triển khai và tiếp tục hoàn thiện về cả lý luận và thực tiễn vấn đề này.
2. Giải pháp bảo đảm minh bạch và trách nhiệm giải trình nhằm kiểm soát quyền lực phòng chống tham nhũng ở Việt Nam
Các quan điểm nêu trên, đã thể hiện những chiều cạnh nổi bật nhất về cách thức tiếp cận, xem xét, xuất phát điểm cũng như định hướng đối với vấn đề minh bạch và trách nhiệm giải trình để kiểm soát quyền lực trong PCTN hiện nay. Dù đã tiệm cận căn bản với các lý thuyết nền tảng, nhưng ở Việt Nam “các hệ thống giải trình trách nhiệm mới đang được xây dựng nhưng thường chậm và không phải lúc nào cũng tối ưu”[7]. Trong Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035 “Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng, dân chủ”, các nghiên cứu đều nhận định: Trách nhiệm giải trình là một điểm yếu nhất của Nhà nước Việt Nam. Chỉ số trọng lượng tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình của chính quyền ở Việt Nam vẫn nằm ở nhóm 10 quốc gia thấp nhất”[8].
Do đó, nhằm đảm bảo minh bạch và trách nhiệm giải trình để kiểm soát quyền lực PCTN, có thể xem xét một số giải pháp sau đây:
Hoàn thiện pháp luật về minh bạch và trách nhiệm giải trình theo hướng khắc phục những “nút thắt” từ thực tiễn.
Tác giả Phạm Duy Nghĩa, trong bài viết “Trách nhiệm giải trình: vươn tới những chuẩn mực của một nền hành chính phục vụ phát triển” đã đề cập đến hàng loạt “nút thắt” liên quan đến trách nhiệm giải trình ở Việt Nam. Đó là nguy cơ “xa dân” trong trách nhiệm chính trị; bất tuân thủ và né tránh trách nhiệm cá nhân; thiếu cơ chế kiềm chế, đối trọng trong trách nhiệm hành chính cả theo chiều dọc và chiều ngang; chưa chú trọng đạo đức nghề nghiệp của công chức trong trách nhiệm giải trình về nghề nghiệp; phản biện của báo chí và xã hội dân sự chưa thực sự bền vững… Những nút thắt này là hạn chế lớn về trách nhiệm giải trình cả về thực tiễn lẫn cơ sở pháp lý.
Do vậy, cần tập trung vào một số giải pháp tương ứng như: xây dựng cơ chế, trong đó cần một Luật về Đảng để nguyên tắc chịu trách nhiệm của Đảng trong Điều 4, Hiến pháp 2013 thực sự được hiện thực hóa; quy định việc bầu cử đối với các vị trí trong chính quyền để sức mạnh của trách nhiệm chính trị từ lá phiếu của người dân thực sự được phát huy hiệu quả; xây dựng bộ công cụ đo lường hiệu quả hoạt động công vụ của công chức gắn với trách nhiệm cá nhân; tạo lập cơ chế tự do phù hợp cho hoạt động chuyên môn và tiếp tục giành không gian cần thiết và thực chất cho hoạt động của báo chí và phản biện xã hội dân sự.[9]
Với minh bạch, căn bản nhất của khía cạnh này liên quan chặt chẽ đến việc bảo đảm cơ chế cho quyền tiếp cận thông tin của người dân. Muốn minh bạch, phải có quyền tiếp cận thông tin và ngược lại. Giải pháp cho vấn đề minh bạch cũng phải xuất phát từ những bất cập về mặt pháp luật. Trước hết, cần quy định rõ phạm vi, ranh giới giữa thông tin phải công bố công khai với thông tin cần bảo vệ theo chế độ bảo mật; quy định rõ chủ thể có trách nhiệm phải công khai thông tin thuộc phạm vi hoạt động nhà nước; trình tự, thủ tục công khai, minh bạch thông tin; các quy định về đáp ứng yêu cầu thông tin của người dân; đặc biệt; cần một cơ chế pháp lý đầy đủ, đồng bộ về bảo đảm thực hiện quyền được thông tin của người dân. Cũng cần bổ sung các quy định pháp luật để có thể phân định rõ ràng quy định trách nhiệm công khai các hoạt động của chủ thể công quyền với trách nhiệm công khai hoạt động của công chức nhà nước bởi chỉ có như vậy mới có có thể truy cứu được trách nhiệm cá nhân khi có vi phạm xảy ra…
Quá trình hoàn thiện pháp luật về minh bạch thông tin, cần thiết lập một bộ nguyên tắc trên tinh thần tiếp thu cao nhất các nguyên tắc về quyền được biết của công chúng mà Tổ chức Điều 19 (ARTICLE) đã thiết lập và được Ủy ban nhân quyền Liên Hợp Quốc ghi nhận, trong đó có những nguyên tắc nền tảng như: công khai tối đa; nghĩa vụ công bố; thúc đẩy một chính phủ mở; các thủ tục yêu cầu phải nhanh chóng, đơn giản, miễn phí; lợi ích công chúng cao hơn bí mật; quyền tiếp cận thông tin phải được đảm bảo bởi một cơ quan độc lập[10]…
Nâng cao hiệu quả, hiệu lực của việc thực hiện pháp luật về minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Tăng cường hoạt động giám sát hành chính và giám sát xã hội, đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm liên quan đến thực thi trách nhiệm minh bạch và giải trình của các chủ thể có thẩm quyền là giải pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về minh bạch và trách nhiệm giải trình. Bởi thiết nghĩ, khi bị đặt vào trạng thái bị kiểm soát, và nguy cơ phải chịu trách nhiệm pháp lý, các chủ thể có nghĩa vụ sẽ nỗ lực và nghiêm túc hơn trong quá trình hiện thực hóa nghĩa vụ.
Phát huy tính chủ động của các chủ thể cung cấp thông tin, thực hiện trách nhiệm giải trình trên tinh thần xây dựng một chính phủ mở để các cơ quan công quyền nhiệt tình và cởi mở trong quá trình cung cấp thông tin.
Tăng cường thanh kiểm tra đến cùng việc chịu trách nhiệm pháp lý – các chế tài đổi với các chủ thể phải minh bạch và thực thi trách nhiệm giải trình, để có thể kịp thời xử lý những vi phạm dễ xảy ra trong thực tế như hành vi ngăn cản tiếp cận hồ sơ một cách trái pháp luật hoặc ngăn cản cơ quan công cộng cung cấp thông tin hoặc hành vi cố ý giải trình một cách hình thức hoặc không thiện chí các yêu cần phải giải trình.
Đẩy mạnh việc bảo vệ người cung cấp thông tin về những sai phạm diễn ra trong các cơ quan công quyền nếu những thông tin đó là ngay tình và có những bằng chứng chứng minh đó là sự thật.
Công khai các quyết định hành chính cũng là giải pháp căn bản để thực hiện hiệu quả minh bạch và trách nhiệm giải trình. Việc không công khai sẽ hàm chứa cơ hội lạm quyền của các chủ thể quản lý hành chính ban hành quyết định, đồng thời hàm chứa nhiều rủi ro cho các đối tượng thi hành và các bên liên quan, gây khó dễ cho tòa án hành chính[11].
Tiếp tục hoàn thiện và thúc đẩy cơ chế tự do tiếp cận thông tin của công chúng.
“Hầu hết các nghiên cứu gần đây về tham nhũng trên thế giới đều kết luận rằng: khả năng kiểm soát tham nhũng tỷ lệ thuận với mức độ tự do/tiếp cận thông tin của công chúng”[12].
Thực chất ở Việt Nam, dù ít nhiều đã thành lập các cơ quan/đơn vị hoặc bổ nhiệm các công chức/viên chức phụ trách vấn đề cung cấp thông tin, nhưng trong thực tế, các chủ thể này không hoạt động mang tính chuyên trách nhằm đáp ứng các yêu cầu thông tin của công chúng, mà mới dừng ở việc các cơ quan, đơn vị cung cấp thông tin cho báo chí, mang tính định kỳ và theo một số vụ việc. Trong khi đó, nhu cầu thông tin đa dạng và cấp bách đến từ rất nhiều người dân và các lực lượng xã hội khác nhau hầu như chưa được đáp ứng và cơ chế đảm bảo yếu..
Do vậy, một cơ chế tổng hợp liên quan đến thúc đẩy tiếp cận thông tin của công chúng cần thiết được tổ chức thực hiện: từ tạo lập các điều kiện để quyền tiếp cận thông tin của công chúng được coi trọng đúng mức cho đến việc bảo hộ cần thiết cho các cơ quan công cộng trong quá trình cung cấp và công khai thông tin của họ. Cũng cần tập trung hiện thực hóa công khai hoạt động của công chức nhà nước và các chủ thể có nghĩa vụ công khai khác thay vì chỉ tập trung vào công khai hoạt động của cơ quan, tổ chức.[13] Bởi như vậy, sự minh bạch rất dễ đi vào hình thức và khó có thể phát hiện vi phạm và truy cứu trách nhiệm pháp lý cụ thể.
Phát huy vai trò của báo chí, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, người dân để tạo nền tảng cho minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Báo chí là phương tiện hữu hiệu để người dân thể hiện quan điểm, tâm tư, nguyện vọng đồng thời là cầu nối, kênh truyền tải đa dạng việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức, đơn vị đến với toàn thể xã hội. “Trong quá trình hối thúc trách nhiệm giải trình trước xã hội, báo chí có một vai trò giám sát, thúc đẩy và gây sức ép tuân thủ đáng kể đối với công chức và nền hành chính”[14]. Báo chí tạo môi trường thuận lợi cho phản biện xã hội, góp phần tích cực trong việc kiểm soát quyền lực, PCTN. Tuy vậy, “nếu sự nghi kỵ và thiếu thiện cảm đối với tự do báo chí và xã hội dân sự tăng lên, Đảng và Nhà nước siết chặt kiểm soát, khi ấy công dân mất dần lòng nhiệt tình tham gia chính trị. Một khi công dân thờ ơ với chính trị, xã hội thiếu cạnh tranh công khai về chính trị, khi đó trách nhiệm giải trình trước xã hội sẽ suy yếu”[15]
“Các khuôn khổ và thể chế thúc đẩy thực thi quyền lập hội, quyền tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin cần phải được xác lập”. Giải pháp tăng cường vai trò của báo chí và xã hội dân sự là nâng cao chất lượng kỹ năng nghiệp vụ, liêm chính nghề nghiệp cho đội ngũ nhà báo; thiết lập đường dây nóng để trong trường hợp khẩn cấp, báo chí có thể liên lạc trực tiếp với người phát ngôn để thu thập thông tin được kịp thời, chính xác, tránh trường hợp phóng viên thu thập thông tin qua đường vòng, lãng phí thời gian và không bảo đảm nội dung và tính kịp thời của báo chí…Bên cạnh đó, cũng cần thiết lập bộ tiêu chí để đảm bảo nguyên tắc, yêu cầu của truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình, minh bạch thông tin để đảm bảo tính chất lượng, hiệu quả và tính xác thực trong thông tin của cơ quan báo chí.
Xây dựng một số thiết chế đặc thù nhằm góp phần thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình trong kiểm soát quyền lực PCTN.
Có khá đa dạng các thiết chế có thể hỗ trợ thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình đã được thiết lập trên thế giới. Đơn cử, là thiết chế Ombudsman, vốn xuất phát từ Thụy Điển, hiện đã dần phổ biến ở Châu Âu, là thiết chế thực hiện hình thức giám sát theo hướng phi nhà nước hóa cơ chế kiểm tra, giám sát để tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng xã hội nhất định trong quá trình giám sát của mình.
Các “trung tâm chất xám” như ban cố vấn, văn phòng tư vấn, phòng chuyên gia.. cũng có vai trò quan trọng trong PCTN.
Ví dụ như ở Nga có tổ chức Văn phòng xã hội, một tổ chức gồm các thành viên phi nhà nước có vai trò lôi cuốn cá nhân và các tổ chức xã hội vào việc thực hiện chính sách của nhà nước, xây dựng và đề xuất sáng kiến tầm quốc gia, giám sát xã hội, thẩm định xã hội đối với các văn bản của các cấp chính quyền, thúc đẩy các sáng kiến của công dân thông qua việc thu thập các kiến nghị của công dân, yêu cầu các chủ thể có thẩm quyền giải trình và thông tin lại cho công chúng một cách rõ ràng, kịp thời. Văn phòng thực hiện báo cáo thường niên về tình hình xã hội, dân sự trong nước để gửi cho các cơ quan liên quan.
Ở Nhật Bản, trong tất cả các cấp quản lý hành pháp đều có một tổ chức là Hội đồng phối hợp, tư vấn (Sigikai) do Chính phủ hoặc Bộ trưởng quyết định thành lập, độc lập với cơ quan hành pháp, gồm các thành viên là đại diện các tổ chức xã hội, đại biểu của các đảng đối lập, các nhà quản lý, khoa học, doanh nhân có uy tín. Nhiệm vụ của Sigikai là lắng nghe, kiểm tra, đánh giá và báo cáo với nhừng người đứng đầu cơ quan hành pháp…
Hay ở một số nước đã thành lập các trung tâm kiểm soát xung đột lợi ích. Các trung tâm này hoạt động độc lập và có vai trò rất quan trong trong việc phát hiện và kích hoạt các yêu cầu về minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể liên quan trong quá trình giám sát, phát hiện xung đột lợi ích trong thực tiễn.
Dù có những khác biệt nhất định, nhưng các thiết chế trên đã tồn tại và phát triển được là nhờ hiệu quả và tác động xã hội tích cực của nó. Việc cân nhắc và tạo cơ hội cho sự xuất hiện của các dạng thiết chế như trên là cần thiết, nhất là trong bối cảnh cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị như quan điểm của Đảng ta trong kiểm soát quyền lực PCTN.
Xây dựng, thúc đẩy liêm chính, xem đó là nền tảng tư tưởng để thực hành minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Liêm chính là ngay thẳng và trong sạch. Liêm chính là mục tiêu, đồng thời là phương thức thực hành minh bạch và trách nhiệm giải trình. Liêm chính cần thiết cho mọi quá trình vận hành quyền lực, đặc biệt là quyền lực nhà nước. Do đó, việc quy tắc, định lượng hóa bộ quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp trong các cơ quan, tổ chức, sẽ tạo ra những khuôn mẫu, thước đo đối với cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, nhiệm vụ. Việc hiện thực hóa bộ quy tắc đạo đức lại trở thành thước đo để nhân dân giám sát, đánh giá chất lượng công việc, từ đó thúc đẩy công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Để giáo dục liêm chính, việc xử lý cán bộ, công chức vi phạm liêm chính phải nghiêm, kịp thời, bởi chỉ khi phải “trả giá” thích đáng cho vi phạm của mình, người vi phạm mới biết sợ, vì thế mà nâng cao được hiệu quả phòng ngừa lạm quyền, tham nhũng từ bên trong mỗi cơ quan, đơn vị.
Nhiều nước, điển hình như Mỹ, Bồ Đào Nha, Canada… đã xây dựng một khuôn khổ pháp lý toàn diện trong đó quy định những hoạt động không phù hợp với cả nền công vụ nói chung và đối với một số vị trí nhất định nói riêng để làm căn cứ quy chiếu và đảm bảo liêm chính.
Xây dựng hệ thống thông tin quốc gia chất lượng, đồng bộ về thủ tục hành chính và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
Dù đa dạng về hình thức, minh bạch và trách nhiệm giải trình nhà nước vẫn là loại hình được chú trọng nhất trong kiểm soát lạm quyền. Như một tất yếu, kiểm soát quyền lực của hệ thống hành pháp, hành chính lại là căn bản nhất trong quá trình kiểm soát quyền lực ở mỗi quốc gia.
Ở nước ta, hệ thống thủ tục hành chính vẫn rất phức tạp, khó áp dụng thống nhất. Xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính là giải pháp khắc phục yếu kém trên đồng thời tạo thuận tiện cho nhân dân trong quá trình tìm hiểu, thực thi. Mỗi cơ quan, tổ chức cần xây dựng một hệ thống dữ liệu liên quan đến hoạt động của mình hoặc liên quan đến lĩnh vực do mình quản lý theo hướng dễ truy cập, sử dụng, được cập nhật thường xuyên, miễn phí và mang tính hệ thống. Các thủ tục hành chính càng đơn giản, càng ít càng tốt. Đặc biệt, thủ tục và quy trình hành chính phải được triển khai trên tinh thần tạo điều kiện tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, giảm phiền hà cho họ thay vì mục tiêu thuận tiện, an toàn trong quá trình quản lý của nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính là tiền đề thúc đẩy minh bạch, cũng là một nội dung cần thiết trong trách nhiệm giải trình và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước…
Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) đã nhận định: tham nhũng là hậu quả của sự thiếu hụt ba yếu tố gồm: Trách nhiệm giải trình, sự liêm chính và tính minh bạch trong bối cảnh tồn tại sự độc quyền quản lý của các quan chức công cộng có quyền ra quyết định.
Ở mỗi quốc gia việc kiểm soát và thúc đẩy minh bạch cùng trách nhiệm giải trình là không hoàn toàn giống nhau nhưng giống nhau ở chỗ, để có thể minh bạch và thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình, với mọi quốc gia, chúng đều là những thách thức lớn, là trụ cột, là phương thức, và mục tiêu của quản trị nhà nước.
Để có thể triển khai hiệu quả công cuộc PCTN, việc tiếp tục xây dựng, nhận diện hệ thống quan điểm về minh bạch và trách nhiệm giải trình là việc làm ý nghĩa, nó không chỉ giúp cân nhắc các giải pháp định hướng để triển khai mà còn góp phần làm sâu sắc thêm lý luận và nhận thức về vấn đề này, tạo nền tảng cho mục tiêu Xây dựng Nhà nước pháp quyền và Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.
TS. Phạm Thị Duyên Thảo
Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[1] Nghị quyết số 04-NQ/TW/2006 Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, T.2, tr.146
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, T.2, tr.145
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, T.2, tr.146
[5] Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người – quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu Luật so sánh, Tiếp cận thông tin: Pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam, NxB. ĐHQG Hà Nội, H.2011, tr.629-630
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t. 2, tr. 146
[7] Báo cáo phát triển Việt Nam 2010, “Các thể chế hiện đại”, Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, Hà Nội, 12/2009, tóm tắt, http://documents worldbank.org
[8] Báo cáo tổng quan “Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng, dân chủ, nhóm Ngân hàng thế giới, Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam, tr.96, https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/23724/VN2035Vietnamese.pdf
[9] Phạm Duy Nghĩa, Trách nhiệm giải trình – Vươn tới những chuẩn mực của một nền hành chính phục vụ, phát triển, https://fsppm.fulbright.edu.vn/cache/MPP2019-542-R09V -2018-08-01-10332786.pdf
[10] Xem http://www.article 19.org
[11] Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người – quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu Luật so sánh, Tiếp cận thông tin: Pháp luật và thực tiễn, sđd, tr. 669-670
[12] Kaufman, D: “Governance and Corruption, World Bank, 2005, Online at: http//www.worldbank.org/wbi/governance/govdata/unofficial…
[13] Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người – quyền công dân, sđd, tr.632-633
[14] Phạm Duy Nghĩa, tlđd, tr.5
[15] Phạm Duy Nghĩa, tlđd, tr.9