Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 2/2023.

Nghị quyết nêu rõ trong thời gian tới, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ tiếp tục thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo tại các nghị quyết của Chính phủ; tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ lưỡng, toàn diện việc thực thi pháp luật, chủ động đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp hoặc chưa có quy định đầy đủ; trực tiếp chỉ đạo xây dựng các đề nghị xây dựng Luật, dự án Luật; ưu tiên các nguồn lực đầu tư về nhân lực và kinh phí để triển khai nhiệm vụ công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm yêu cầu về tiến độ và chất lượng. Trong quá trình soạn thảo các dự án luật cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Đảng, Quốc hội, cơ quan, tổ chức liên quan khác để tạo sự đồng thuận; tăng cường truyền thông chính sách, tạo đồng thuận trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Tổ chức chính quyền Thủ đô theo hướng tinh gọn, hiện đại
Về Đề nghị xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi), Chính phủ cơ bản thống nhất với các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi) do Bộ Tư pháp trình, về các chính sách cụ thể: Tổ chức chính quyền Thủ đô theo hướng tinh gọn, hợp lý, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ chế thu hút, sử dụng nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển Thủ đô; cơ chế huy động nguồn lực, nâng cao năng lực tài chính – ngân sách cho phát triển của Thủ đô; hoàn thiện các quy định về quy hoạch, quản lý và phát triển đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông của Thủ đô; cơ chế, chính sách xây dựng, phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh; cơ chế, chính sách phát triển văn hóa và giáo dục, đào tạo Thủ đô; huy động, sử dụng, phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; cơ chế, chính sách phát triển hệ thống y tế hiện đại và hệ thống an sinh xã hội Thủ đô toàn diện, bao trùm và bền vững; cơ chế, chính sách liên kết, phát triển Vùng Thủ đô trở thành khu vực phát triển nhanh, bền vững về kinh tế – xã hội, văn minh, năng động, trở thành khu vực trọng điểm.
Chính phủ yêu cầu Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện Đề nghị xây dựng Luật bảo đảm các yêu cầu sau:
– Tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ các nghị quyết, chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, văn bản của các cơ quan có thẩm quyền khác có liên quan để nghiên cứu, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương này, tạo điều kiện để Thủ đô phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
– Trong quá trình xây dựng Luật cần rà soát chọn lọc một số giải pháp chính sách trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, tránh trùng lặp với các chính sách chung áp dụng trong phạm vi cả nước, rà soát, chọn lọc các quy định có liên quan tới Thủ đô, luật hóa các quy định tại văn bản dưới luật; đánh giá việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển cho một số tỉnh, thành phố trong thời gian qua; chọn lọc những cơ chế, chính sách phát huy hiệu quả trong thực tiễn để đưa vào dự án Luật này; quy định rõ nguyên tắc ưu tiên áp dụng Luật Thủ đô để tạo thuận lợi cho quá trình áp dụng, thực thi Luật Thủ đô.
– Các chính sách cần kế thừa, bổ sung, luật hóa những quy định hiện hành đã được thực tiễn chứng minh là phù hợp, ưu tiên các cơ chế chính sách trọng điểm, đặc thù trong lĩnh vực đầu tư, tài chính, quy hoạch, đất đai, xây dựng hạ tầng, giao thông, môi trường, văn hóa, khoa học và công nghệ như: cơ chế huy động nguồn lực hợp tác công tư (trong đó có các hình thức BT, BOT…); cơ chế đầu tư hạ tầng giao thông hiệu quả nhằm giảm tải, giảm áp lực về hạ tầng giao thông; huy động các nguồn vốn linh hoạt, hiệu quả,…
– Các chính sách cần bảo đảm yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính; phân cấp, phân quyền trong quản lý kết hợp phân bổ nguồn lực hợp lý; tổ chức bộ máy, biên chế khả thi, hiệu quả; có chính sách đột phá, thu hút được các nguồn lực, nhân tài cho sự phát triển của Thủ đô; có cơ chế kiểm soát quyền lực, thanh tra, giám sát, bảo đảm sự phát triển nhanh, mạnh và bền vững của Thủ đô.
– Nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách đặc thù về đầu tư, tài chính, quy hoạch, đất đai, xây dựng, nhà ở (đặc biệt là nhà ở xã hội), giao thông, môi trường, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, cơ chế thu hút nhân tài; cơ chế thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mới như chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; cơ chế thu hút nguồn lực phát triển các lĩnh vực về: văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội, môi trường,…
Về mô hình tổ chức chính quyền thành phố Hà Nội, Chính phủ yêu cầu rà soát, hoàn thiện các quy định cụ thể theo hướng tổ chức chính quyền Thành phố thực hiện theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 (không tổ chức Hội đồng nhân dân phường), bổ sung chính quyền thành phố thuộc Thành phố Hà Nội; tiếp tục hoàn thiện bộ máy chính quyền các cấp bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Đấu giá bảo đảm công khai, minh bạch
Về Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản, Chính phủ cơ bản thống nhất với các nhóm chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá như đề xuất của Bộ Tư pháp về các chính sách: Hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đấu giá viên; tổ chức, hoạt động, quyền và nghĩa vụ của tổ chức đấu giá tài sản; hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản, bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn, chặt chẽ, công khai, minh bạch và thống nhất; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đấu giá tài sản, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đấu giá, tránh tình trạng tiêu cực, gây thất thoát tài sản; hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động đấu giá tài sản; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản.
Chính phủ yêu cầu Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện Đề nghị xây dựng Luật bảo đảm các yêu cầu sau:
– Trên cơ sở tổng kết, đánh giá kỹ việc thực hiện các quy định của Luật hiện hành để sửa đổi, bổ sung các quy định phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi, khắc phục được các khó khăn, vướng mắc, bất cập; phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; thể hiện đầy đủ các chính sách đã được Chính phủ thông qua trong Đề nghị xây dựng Luật này; thể hiện rõ nguyên tắc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước về hoạt động đấu giá.
– Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đấu giá của các tổ chức, doanh nghiệp cũng như trong quản lý nhà nước về đấu giá; bảo đảm công khai, minh bạch; phòng, chống tiêu cực, thất thoát tài sản, ngăn ngừa việc lợi dụng chính sách đấu giá để thông đồng, nâng giá hoặc giảm giá tài sản; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động đấu giá.
– Cần nghiên cứu để có cơ chế đấu giá phù hợp đối với các tài sản đặc thù như: Quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản, quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, biển số phương tiện giao thông cơ giới, hạn ngạch thuế quan nhập khẩu, di sản văn hóa… nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn.
– Quá trình xây dựng chính sách, xây dựng Luật cần bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của các cơ quan, tổ chức, nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.
Khuyến khích người dân tham gia hoạt động phòng không nhân dân
Đối với Đề nghị xây dựng Luật Phòng không nhân dân, Chính phủ giao Bộ Quốc phòng khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến của Thành viên Chính phủ, hoàn thiện Đề nghị xây dựng Luật, bảo đảm các yêu cầu sau:
– Tiếp tục rà soát, nghiên cứu, làm rõ mối quan hệ giữa phòng không nhân dân, phòng không không quân, dân quân tự vệ, phòng thủ dân sự; rà soát các luật liên quan như: Luật Quốc phòng, Luật Dân quân tự vệ, Luật lực lượng dự bị động viên, Luật Đầu tư, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Cảnh sát cơ động, Luật Phòng, chống khủng bố… và các quy định pháp luật có liên quan để xác định phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật Phòng không nhân dân để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và khả thi.
– Nghiên cứu các giải pháp quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu, mục tiêu, chất lượng của xây dựng luật, các chính sách cần có tính dự báo, phù hợp với tình hình mới về yêu cầu bảo đảm an ninh quốc gia, sự phát triển của khoa học công nghệ và phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời khuyến khích được sự tham gia của người dân vào hoạt động phòng không nhân dân khi cần thiết.
– Xây dựng Luật theo hướng, luật hóa các nội dung mang tính ổn định, những nội dung còn biến động thì quy định mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ quy định cụ thể, bảo đảm linh hoạt, khả thi trong thực tiễn; tiếp tục rà soát, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các bộ, ngành liên quan trong quản lý, thực hiện các hoạt động phòng không nhân dân, không bỏ sót, tránh trùng lắp, chồng chéo nhiệm vụ, bảo đảm sự phối hợp hiệu quả.
Đối với Dự án Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, Chính phủ yêu cầu hoàn thiện dự thảo Luật về một số vấn đề sau:
– Hoàn thiện quy định lực lượng quản lý, bảo vệ công trình sơ tán thời chiến của các ban, bộ, ngành trung ương theo hướng trong một số trường hợp, các ban, bộ, ngành trung ương không tổ chức được lực lượng bảo vệ công trình sơ tán thời chiến của mình thì bàn giao cho Bộ Quốc phòng bố trí lực lượng quân sự địa phương trực tiếp bảo vệ trong thời bình.
– Quy định thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển mục đích sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự sang mục đích khác cùng với quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất công trình quốc phòng để tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện, bảo đảm yêu cầu về an ninh, quốc phòng, bí mật quân sự; các trường hợp đặc biệt thì cần có chính sách đặc thù, đồng thời cần có công cụ kiểm soát chặt chẽ. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) để bảo đảm đồng bộ, thống nhất với Luật này.
Cần quy định linh hoạt Chương trình phát triển nhà ở cho địa phương
Về dự án Luật Nhà ở (sửa đổi), Chính phủ yêu cầu bảo đảm các yêu cầu sau:
– Quy định các chính sách đối với nhà chung cư: Thời hạn sử dụng nhà chung cư; các trường hợp phải phá dỡ chung cư; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể, phù hợp với quy định Hiến pháp, thống nhất, đồng bộ với quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Xây dựng và Luật Đất đai, bảo đảm hài hòa lợi ích người dân, Nhà nước và doanh nghiệp.
– Cần quy định linh hoạt Chương trình phát triển nhà ở cho địa phương, cắt giảm thủ tục hành chính để địa phương chủ động triển khai thực hiện; quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quy hoạch bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội trong quỹ đất xây dựng nhà ở của tỉnh, không quy định tỷ lệ diện tích đất dành cho nhà ở xã hội đối với từng dự án để linh hoạt, phù hợp với thực tiễn; có cơ chế hữu hiệu để huy động nguồn lực của khu vực tư nhân cho phát triển nhà ở xã hội, gắn trách nhiệm của chủ đầu tư trong xây dựng nhà ở xã hội, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu của Chính phủ trong việc triển khai quyết liệt Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021- 2030.
– Hoàn thiện quy định chủ đầu tư được bố trí quỹ đất riêng để xây dựng công trình kinh doanh thương mại dịch vụ trong phạm vi dự án nhà ở xã hội, bảo đảm hài hòa lợi ích người dân, Nhà nước và nhà đầu tư, thúc đẩy sự phát triển, bảo đảm công khai, minh bạch, thống nhất với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và pháp luật có liên quan, về bố trí quỹ đất dành để phát triển nhà ở xã hội, quy định trường hợp có 02 nhà đầu tư trở lên thì thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo pháp luật về đấu thầu, bảo đảm công bằng giữa các nhà đầu tư.
– Xác định giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội không phải do Nhà nước đầu tư xây dựng trên cơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp, lợi nhuận định mức và không tính các khoản ưu đãi của Nhà nước; thực hiện công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích của các bên để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư.
– Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định cho phép nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở hoặc đất khác (trừ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp trả tiền thuê đất hàng năm) được thực hiện dự án nhà ở thương mại, phù hợp với quy hoạch khi có đủ điều kiện làm chủ đầu tư; có chính sách sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài gắn với đất thuê để phù hợp với thực tế.
– Để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa các Luật: Nhà ở, Kinh doanh bất động sản, Đất đai và các luật chuyên ngành khác với Luật Công chứng, cần sửa đổi theo hướng: Luật Nhà ở và các luật chuyên ngành khác quy định rõ các giao dịch phải công chứng, chứng thực về nhà ở, tài sản khác; Luật Công chứng quy định về trình tự, thủ tục công chứng các giao dịch đó; rà soát kỹ lưỡng, bảo đảm nội dung dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) thống nhất, đồng bộ với các Luật: Đầu tư, Kinh doanh bất động sản, Đất đai, Xây dựng, Quản lý, sử dụng tài sản công,….
Tăng cường quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản
Dự án Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), Chính phủ yêu cầu Bộ Xây dựng hoàn thiện dự thảo Luật, bảo đảm:
– Làm rõ nguyên tắc áp dụng Luật Kinh doanh bất động sản trong mối quan hệ với các luật có liên quan: Bộ luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Công chứng…, phù hợp với nguyên tắc xây dựng và áp dụng pháp luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
– Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc Nhà nước sẽ không can thiệp nếu thị trường vận hành tốt, bảo đảm phát triển thị trường an toàn, lành mạnh, bền vững; đồng thời cần có biện pháp, công cụ điều tiết phù hợp, kịp thời của Nhà nước khi cần thiết, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế.
– Tăng cường quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản, thiết kế các công cụ quản lý phù hợp về phạm vi, đối tượng và thẩm quyền của các cấp, bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và doanh nghiệp, minh bạch hóa thị trường, công bằng xã hội; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền một cách hợp lý để có thể kịp thời xử lý các tình huống, khó khăn, vướng mắc phát sinh, gắn với kiểm tra, giám sát việc thực hiện; bảo đảm quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương về thị trường bất động sản; có công cụ kiểm tra, giám sát và có cơ chế khen thưởng hoặc xử lý khi có vi phạm.
– Rà soát các quy định pháp luật của dự thảo Luật về: hợp đồng, công chứng, thẩm quyền, thủ tục, điều kiện chuyển nhượng dự án bất động sản… bảo đảm thống nhất với quy định pháp luật về công chứng, dân sự, đất đai, đầu tư…
– Cải cách thủ tục hành chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục lấy ý kiến, tham vấn đầy đủ, thực chất ý kiến của đối tượng chịu sự tác động, chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn; phối hợp với các cơ quan để tiếp tục tiếp thu, hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm chất lượng.
Thúc đẩy phát triển thị trường viễn thông cạnh tranh lành mạnh
Về Dự án Luật Viễn thông (sửa đổi), Chính phủ cơ bản thống nhất với nội dung của dự án Luật. Chính phủ yêu cầu hoàn thiện dự án Luật bảo đảm các yêu cầu sau:
– Tiếp tục đánh giá kỹ, toàn diện việc thực hiện Luật Viễn thông năm 2009, khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập do quy định hiện hành; sửa đổi các quy định chưa phù hợp; bổ sung quy định để quản lý các vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn; có cơ chế thúc đẩy phát triển thị trường viễn thông cạnh tranh lành mạnh; hỗ trợ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia.
– Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế; tăng cường phân cấp về thẩm quyền; cắt giảm tối đa thủ tục hành chính; sửa đổi, luật hóa các quy định pháp luật hiện hành, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và cam kết quốc tế của Việt Nam.
– Nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng tác động của chính sách mới về: Dịch vụ ứng dụng Internet trong hoạt động viễn thông, dịch vụ trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây; điều kiện cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới đến người sử dụng tại Việt Nam, bảo đảm phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với xu thế hội nhập và sự thay đổi về công nghệ thông tin, viễn thông.
– Kế thừa quy định của Luật hiện hành về Quỹ viễn thông công ích Việt Nam để hoàn thiện quy định của dự thảo Luật, phù hợp mục tiêu hỗ trợ các hoạt động viễn thông công ích theo quy định của Luật, có cơ chế quản lý, sử dụng, đóng góp của Quỹ bảo đảm thiết thực, hiệu quả; đánh giá hiệu quả của Quỹ theo Nghị quyết số 792/NQ-UBVQH14 ngày 22 tháng 10 năm 2019 đánh giá hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước, bảo đảm việc quản lý, sử dụng Quỹ thiết thực, hiệu quả, phù hợp với nhu cầu thực tế trong từng giai đoạn.
– Tiếp tục rà soát các luật hiện hành và các luật đang sửa đổi như: Luật Công nghệ thông tin, Luật Đầu tư, Luật Đấu giá tài sản, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Giá, Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng,.. .để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
– Rà soát các quy định giao Chính phủ quy định chi tiết, thể hiện trong Luật các nội dung có tính ổn định; giao Chính phủ quy định những nội dung có tác động bởi sự thay đổi về công nghệ và tình hình phát triển để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn.
Uyên Uyên
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Theo Luật Cư trú năm 2020, từ ngày 1/1/2023, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy chính thức hết hiệu lực, để triển khai thực hiện quy định này và hỗ trợ người dân thực hiện các thủ tục hành chính, Bộ Công an đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp giải quyết khó khăn cho người dân khi thực hiện thủ tục hành chính.

Bước đầu triển khai gặp một số khó khăn, vướng mắc
Theo Trung tướng Tô Ân Xô, Người phát ngôn Bộ Công an, việc bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy là xu thế tất yếu trong chuyển đổi số quốc gia, thay thế vào đó là cách thức quản lý mới trên điện tử, sẽ tạo ra nhiều tiện ích trong thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự.
Việc không sử dụng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy trong các giao dịch dân sự là vấn đề được sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc quyết tâm của các bộ, ngành, địa phương… sự đồng tình, ủng hộ của doanh nghiệp, người dân; hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoàn thiện, đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác.
Trung tướng Tô Ân Xô cho rằng, bước đầu triển khai gặp một số khó khăn, vướng mắc như: Do việc chuyển động là không đồng đều, chưa quyết liệt ở một số bộ, ngành, địa phương dẫn đến việc kết nối với hệ thống dữ liệu dân cư, dẫn đến việc thực hiện các thủ tục hành chính hiện nay chưa thống nhất.
Cơ sở hạ tầng, kỹ thuật tại một số bộ, ngành, địa phương chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu dẫn đến đường truyền mạng còn chậm, đôi khi bị tắc nghẽn, đòi hỏi phải có thời gian khắc phục.
Nhiều bộ, ngành chưa ban hành quyết định công bố thủ tục hành chính có yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú; chưa ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện giải quyết các thủ tục hành chính có yêu cầu các thông tin không nằm trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, dẫn đến triển khai thực hiện chưa thống nhất theo quy định của pháp luật.
Nhiều cán bộ chưa nắm vững quy định, quy trình, thủ tục mới nên vẫn yêu cầu công dân xuất trình các giấy tờ chứng minh nơi cứ trú dù công dân đã có căn cước công dân có gắn chip.
Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp giải quyết khó khăn cho người dân
Để khắc phục tình trạng này, Trung tướng Tô Ân Xô cho biết, Bộ Công an đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, chủ động tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 05 về tiếp tục đẩy mạnh triển khai Đề án 06 tại các bộ, ngành, địa phương năm 2023 và những năm tiếp theo; phối hợp tham mưu Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Công điện số 90/CĐ-TTg, ngày 28/02/2023 chấn chỉnh thực hiện quy định liên quan đến bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy.
Đồng thời, đẩy mạnh việc cấp mã định danh cá nhân, thẻ căn cước công dân gắn chip cho công dân đủ điều kiện; rà soát sửa đổi văn bản pháp luật theo hướng tăng giá trị hiệu lực của mẫu xác nhận thông tin về cư trú; tiếp tục hoàn thiện và tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng ứng dụng VneID.
Bộ Công an tích cực phối hợp với các bộ, ngành xác thực, cập nhật, làm sạch dữ liệu và kết nối, chia sẻ dữ liệu dân cư phục vụ giải quyết thủ tục hành chính; tăng cường kiểm tra việc cán bộ sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công, kiên quyết xử lý, kỷ luật những trường hợp không thực hiện đúng quy định, cố tình gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu cho công dân, bức xúc trong dư luận xã hội.
Đồng thời, Bộ Công an kiến nghị các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 05/CT-TTg và Công điện số 90/CĐ-TTg.
Đề nghị các địa phương chưa tiến hành kết nối, khẩn trương hoàn thành kết nối hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ người dân giải quyết thủ tục hành chính.
Quán triệt, thực hiện nghiêm việc không yêu cầu người dân xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến; tăng cường rà soát, kiểm tra và xử lý nghiêm cán bộ, công chức, viên chức vi phạm các quy định nêu trên theo thẩm quyền…
Bộ Công an đã có văn bản hướng dẫn 7 phương thức sử dụng thông tin công dân thay thế việc xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú; lhối hợp Văn phòng Chính phủ ban hành hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ, chủ tịch UBND các địa phương kết nối, tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; thành lập nhiều đoàn kiểm tra tại các tỉnh, thành phố để kiểm tra việc triển khai thác phương thức sử dụng thông tin về cư trú trong giải quyết thủ tục hành chính…
Sáng 1/3, tại Thanh tra tỉnh Bắc Ninh, Cụm Thi đua số II – Thanh tra 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng ký giao ước thi đua năm 2023.

Cụm Thi đua số II gồm Thanh tra 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng: Hưng Yên, Hà Nam, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Nam Định, Quảng Ninh, Ninh Bình.
Năm 2023, Thanh tra tỉnh Bắc Ninh là Cụm trưởng, Thanh tra tỉnh Nam Định là Cụm phó Cụm Thi đua số II.
Tại hội nghị, ông Trần Quang Ứng – Chánh Thanh tra tỉnh Bắc Ninh, Cụm trưởng Cụm Thi đua số II đã phát động phong trào thi đua năm 2023.
Theo đó, năm 2023, Thanh tra 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng sẽ tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua yêu nước, gắn với việc thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Thường xuyên tổ chức học tập, nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc; các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động.
Đặc biệt, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, người lao động, nhất là trách nhiệm người đứng đầu trong các cơ quan, đơn vị trong cụm thi đua; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức; thực hiện nghiêm quy định về những điều đảng viên không được làm; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Tổ chức tốt phong trào thi đua thường xuyên, theo lĩnh vực, đột xuất ở từng đơn vị; phát động thi đua gắn với việc kiểm tra, đánh giá kết quả thi đua ở từng đơn vị trong ngành Thanh tra; tiến hành tổng kết thi đua, bình xét khen thưởng theo đúng hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ, UBND tỉnh.
Gắn việc xây dựng điển hình tiên tiến trong thi đua với việc xây dựng các mô hình điển hình trong hoạt động thanh tra, tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thanh tra phòng, chống tham nhũng tại mỗi đơn vị.

Đáng lưu ý, Thanh tra 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của ngành. Phấn đấu hoàn thành 100% các cuộc thanh tra theo kế hoạch được phê duyệt, thanh tra chuyên đề của Thanh tra Chính phủ và thanh tra đột xuất do Tỉnh ủy, UBND các tỉnh giao.
Đổi mới công tác thanh tra theo hướng tăng cường thanh tra trách nhiệm, thanh tra chuyên đề; tăng cường kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước các cấp biện pháp chấn chỉnh sơ hở, yếu kém, bất cập trong quản lý; thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội.
Chủ trì, phối hợp làm tốt công tác xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra trên địa bàn các tỉnh; thực hiện có hiệu quả các quyết định, kết luận sau thanh tra, kiểm tra, nhất là việc xử lý cán bộ vi phạm, đặc biệt là việc thu hồi tiền, tài sản, đất đai và việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực qua công tác thanh tra.
Trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tập trung tham mưu giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo mới phát sinh, phấn đấu đạt tỷ lệ trên 85% và tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật, phấn đấu đạt tỷ lệ trên 90%.
Tập trung thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, nhất là công tác kê khai tài sản, xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
Trong năm 2023, Thanh tra 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng tiếp tục hưởng ứng các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động: Phong trào thi đua “Đoàn kết, sáng tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “Cả nước đoàn kết, chung sức, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch Covid-19; “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau”; “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”; “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hoá công sở”; “Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí” và các phong trào thi đua của các tỉnh phát động.
Căn cứ kế hoạch phát động thi đua năm 2023 của Cụm Thi đua Thanh tra 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng, các đơn vị thành viên phát động thi đua đến toàn thể cán bộ, công chức thanh tra 9 tỉnh, tạo khí thế để thực hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ chính trị được giao.
Phát huy những thành tích đã đạt được năm 2022, các đơn vị thành viên Cụm Thi đua số II đoàn kết, quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nội dung, chỉ tiêu thi đua năm 2023 đã đề ra.
Tại hội nghị, thanh tra các tỉnh đều thống nhất với các nội dung thi đua năm 2023, đồng thời bày tỏ công tác khen thưởng phải gắn với phong trào thi đua, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của ngành, của đơn vị theo yêu cầu của Tỉnh ủy, HĐND, UBND các tỉnh và của Thanh tra Chính phủ trên các lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã quyết định giới thiệu nhân sự để bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2021 – 2026.

Ngày 1/3, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã họp để xem xét và cho ý kiến về công tác cán bộ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định giới thiệu nhân sự để bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2021 – 2026.
Ban Chấp hành Trung ương cũng quyết định bầu bổ sung 3 Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá XIII, gồm các ông: Nguyễn Mạnh Hùng, Vụ trưởng Vụ Địa bàn I, Cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; Đinh Hữu Thành, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ Quảng Bình; Lê Văn Thành, Uỷ viên Ban Thường vụ Thành uỷ, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Thành uỷ Cần Thơ.
Theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch nước.
Về quy trình bầu Chủ tịch nước sẽ được thực hiện theo các bước. Cụ thể, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình danh sách đề cử để Quốc hội bầu Chủ tịch nước.
Sau đó, Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua danh sách để bầu Chủ tịch nước. Quốc hội bầu Chủ tịch nước bằng hình thức bỏ phiếu kín.
Ban kiểm phiếu công bố kết quả kiểm phiếu, biểu quyết. Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua nghị quyết bầu Chủ tịch nước.
Cũng theo quy định của Hiến pháp, sau khi được bầu, Chủ tịch nước sẽ tiến hành tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định tại Điều 88 của Hiến pháp.
Trong đó, Chủ tịch nước có nhiệm vụ và quyền hạn như công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ.
Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao…
Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự Nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam.
Chủ tịch nước cũng là thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng…
Trong Quy định số 214 của Bộ Chính trị cũng nêu rõ tiêu chuẩn của Chủ tịch nước. Theo đó, ngoài bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư thì Chủ tịch nước còn đáp ứng nhiều điều kiện.
Cụ thể: Có uy tín cao, là trung tâm đoàn kết trong Trung ương, Bộ Chính trị, trong toàn Đảng và nhân dân.
Có năng lực nổi trội, toàn diện trên các mặt công tác, nhất là lĩnh vực đối nội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng; hiểu biết sâu, rộng về công tác tư pháp.
Là trung tâm đoàn kết các lực lượng xã hội và các cộng đồng dân tộc trong, ngoài nước.
Quyết liệt trong lãnh đạo, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.
Kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc trưởng ban, bộ, ngành Trung ương.
Tham gia Bộ Chính trị trọn một nhiệm kỳ trở lên; trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương quyết định.
| Hiện bà Võ Thị Ánh Xuân, Phó Chủ tịch nước đang giữ quyền Chủ tịch nước.
Việc bà Võ Thị Ánh Xuân giữ quyền Chủ tịch nước bắt đầu từ ngày 18/1, sau khi Quốc hội khóa XV thông qua nghị quyết việc miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước nhiệm kỳ 2021-2026 và cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội khóa XV đối với ông Nguyễn Xuân Phúc vào cùng ngày tại kỳ họp bất thường lần thứ 3. Bà Võ Thị Ánh Xuân giữ quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước mới. Trước đó, ngày 17/1, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã họp xem xét và cho ý kiến về nguyện vọng thôi giữ các chức vụ, nghỉ công tác và nghỉ hưu của ông Nguyễn Xuân Phúc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhiệm kỳ 2021 – 2026. Căn cứ quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước và xem xét nguyện vọng của ông Nguyễn Xuân Phúc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng ý để ông Nguyễn Xuân Phúc thôi giữ các chức vụ Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng – An ninh nhiệm kỳ 2021 – 2026. Ông Nguyễn Xuân Phúc là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, sinh ra trong gia đình giàu truyền thống cách mạng; được đào tạo cơ bản, trưởng thành từ cơ sở và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị các khoá tín nhiệm phân công giữ nhiều chức vụ lãnh đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trên cương vị Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2016 – 2021, ông đã có nhiều nỗ lực trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác phòng, chống dịch Covid-19 đạt kết quả quan trọng. Tuy nhiên, ông chịu trách nhiệm chính trị của người đứng đầu khi để nhiều cán bộ, trong đó có 2 Phó Thủ tướng, 3 Bộ trưởng có vi phạm, khuyết điểm, gây hậu quả rất nghiêm trọng; 2 Phó Thủ tướng đã xin thôi giữ các chức vụ, 2 Bộ trưởng và nhiều cán bộ bị xử lý hình sự. Nhận thức rõ trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, ông Nguyễn Xuân Phúc đã có đơn xin thôi giữ các chức vụ được phân công, nghỉ công tác và nghỉ hưu. |
Hương Giang
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu bổ sung 3 ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII.

Sáng 1/3, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã họp để xem xét và cho ý kiến về công tác cán bộ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định bầu bổ sung 3 Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khoá XIII.
Cụ thể là các ông: Nguyễn Mạnh Hùng, Vụ trưởng Vụ Địa bàn I, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Đinh Hữu Thành, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình; Lê Văn Thành, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Cần Thơ.
Đầu nhiệm kỳ khóa XIII, Trung ương đã bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương với 19 Ủy viên do ông Trần Cẩm Tú làm Chủ nhiệm.
Sau đó, tại Hội nghị lần thứ 3 vào tháng 7/2021, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu bổ sung 2 Ủy viên, nâng tổng số Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khoá XIII lên 21 người.
Từ đó đến nay, có 2 nhân sự được phân công nhiệm vụ mới là Phó Chủ nhiệm Trần Đức Thắng làm Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương và ông Đoàn Anh Dũng (Ủy viên) làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận nhiệm kỳ 2020 – 2025.
Ngoài ra, Phó Chủ nhiệm Nguyễn Văn Hùng qua đời vào tháng 11/2022 nên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khuyết 3 Ủy viên.
Với việc bầu bổ sung 3 Ủy viên mới, Ủy ban Kiểm tra Trung ương có 21 Ủy viên gồm:
1. Ông Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm
2. Ông Trần Văn Rón, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Thường trực
3. Ông Trần Tiến Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm
4. Ông Hoàng Văn Trà, Phó Chủ nhiệm
5. Ông Nghiêm Phú Cường, Phó Chủ nhiệm
6. Ông Nguyễn Minh Quang, Phó Chủ nhiệm
7. Ông Nguyễn Văn Nhân, Ủy viên
8. Ông Vũ Khắc Hùng, Ủy viên
9. Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Ủy viên
10. Ông Cao Văn Thống, Ủy viên
11. Ông Võ Thái Nguyên, Ủy viên
12. Ông Hồ Minh Chiến, Ủy viên
13. Ông Nguyễn Văn Hội, Ủy viên
14. Ông Tô Duy Nghĩa, Ủy viên
15. Bà Trần Thị Hiền, Ủy viên
16. Ông Hoàng Trọng Hưng, Ủy viên
17. Ông Phạm Đức Tiến, Ủy viên
18. Ông Nguyễn Văn Quyết, Ủy viên
19. Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Ủy viên
20. Ông Đinh Hữu Thành, Ủy viên
21. Ông Lê Văn Thành, Ủy viên.
Hương Giang
(Nguồn: thanhtra.com.vn)

Dự cuộc họp có Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Bình Định Nguyễn Tuấn Thanh và đại diện lãnh đạo một số sở, ban, ngành, UBND cấp huyện thuộc tỉnh Bình Định được thanh tra.
Đồng chí Trưởng đoàn thanh tra đã đọc toàn văn Quyết định thanh tra và phổ biến nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn thanh tra, quyền hạn và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra.
Thượng tá Đinh Văn Kha, Phó Trưởng đoàn thanh tra đã phổ biến nội dung Kế hoạch thanh tra, dự kiến lịch thanh tra.
Trưởng đoàn thanh tra chủ trì thảo luận lịch dự kiến thanh tra, lãnh đạo UBND tỉnh Bình Định và các sở, ngành được thanh tra nhất trí với nội dung lịch thanh tra và không có ý kiến gì khác.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định, Bộ Công an tiến hành thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ; quản lý, sử dụng con dấu; quản lý căn cước công dân, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu căn cước công dân đối với UBND tỉnh Bình Định là cần thiết và mong muốn Đoàn thanh tra chia sẻ những khó khăn trong lĩnh vực này với tỉnh, đồng thời chỉ ra hạn chế, khuyết điểm của tỉnh trong lĩnh vực này để UBND tỉnh kịp thời chỉ đạo rút kinh nghiệm, kịp thời tổ chức khắc phục để làm tốt hơn trong thời gian tới.
Phát biểu kết luận, Thiếu tướng Nguyễn Xuân Hồng, Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an, Trưởng đoàn thanh tra khẳng định tỉnh Bình Định đã có nhiều cố gắng, chấp hành cơ bản tốt các quy định của pháp luật về quản lý một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ; quản lý, sử dụng con dấu; quản lý căn cước công dân, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu căn cước công dân; đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành được thanh tra chủ động chuẩn bị hồ sơ, tài liệu và cử người có trách nhiệm phối hợp làm việc với Đoàn thanh tra để Đoàn thanh tra có thể hoàn thành tốt nội dung, chương trình thanh tra dự kiến đã đề ra./.
Thông tin phản ảnh từ báo chí chiếm hơn 12%
Báo cáo đề dẫn tọa đàm, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy TP.HCM Phan Nguyễn Như Khuê cho biết, trước khi Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Quy định số 1374-QĐ/TU, các cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm xử lý các thông tin phản ánh. Tuy nhiên, có lúc, có nơi, nhiều cơ quan, đơn vị có thông tin báo chí phản ánh nhưng chưa kịp thời chỉ đạo xem xét, xử lý. Quy định số 1374-QĐ/TU đã chỉ rõ thông tin phản ánh được xác định là có cơ sở theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xem xét, xử lý từ 4 nguồn, trong đó nguồn thứ tư là phản ánh của báo chí. “Ban Thường vụ Thành ủy yêu cầu, thông tin phản ánh của báo chí “liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đơn vị nào thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị đó lãnh đạo, chỉ đạo xử lý theo thẩm quyền, báo cáo Ban Thường vụ cấp ủy cùng cấp và Ban Thường vụ cấp trên; văn phòng cấp ủy cấp trên của đơn vị tổng hợp, báo cáo, đề xuất thường trực cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo; Ban tuyên giáo các cấp tham mưu, đề xuất Thường trực cấp ủy cùng cấp lãnh đạo, chỉ đạo xử lý những vấn đề nhạy cảm liên quan đến tư tưởng chính trị, bức xúc trong dư luận xã hội của TP, địa phương, đơn vị.
Theo đồng chí Phan Nguyễn Như Khuê, qua tổng hợp kết quả thực hiện Quy định số 1374-QĐ/TU cho thấy, thông tin phản ánh từ cơ quan báo chí rất nhiều; kết quả xử lý thông tin, phản ánh và xử lý kỷ luật TP đã tiếp nhận hơn 9.000 thông tin, trong đó thông tin từ báo chí chiếm hơn 12%. Qua xử lý thông tin phản ánh của báo chí, các cấp ủy đã rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy định, quy chế cho phù hợp với thực tiễn. Qua đó cho thấy thông tin phản ánh hằng ngày của báo chí đóng vai trò rất quan trọng, trực tiếp đối với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp. Với vai trò là cơ quan tham mưu của Thành ủy; nghiên cứu, tham mưu Ban Chấp hành Đảng bộ TP, Ban Thường vụ Thành ủy, Thường trực Thành ủy trong công tác báo chí, Ban Tuyên giáo Thành ủy thường xuyên chủ động công tác chỉ đạo, định hướng báo chí TP và trao đổi, đề nghị các cơ quan báo chí Trung ương đóng trên địa bàn, nhất là các cơ quan báo chí Trung ương có ký kết Chương trình phối hợp truyền thông với TP.HCM quan tâm, đầu tư thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Quy định số 1374-QĐ/TU.
Chỉ ra những tồn tại, hạn chế, thậm chí sai phạm của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ
Đồng chí Phan Nguyễn Như Khuê đánh giá, công tác tuyên truyền Quy định số 1374-QĐ/TU luôn được các cơ quan báo chí TP quan tâm, có nhiều phương pháp thực hiện tốt, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong các cấp ủy, tổ chức đảng và đến đông đảo cán bộ, đảng viên cùng các tầng lớp Nhân dân. Phản ánh của báo chí đi vào nhiều lĩnh vực, nhất là phản ánh về công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ ra những tồn tại, hạn chế, thậm chí sai phạm của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ. Qua phản ánh thông tin, các cơ quan báo chí góp phần đề xuất các giải pháp để các cơ quan ra quy chế phối hợp kịp thời, hạn chế khuyết điểm. Đồng thời, cũng qua thông tin phản ánh của báo chí, phần nào đã giúp các địa phương, đơn vị nắm bắt được tình hình, chủ động giải quyết các sai sót, khuyết điểm, vi phạm, nhất là những vi phạm diễn biến kéo dài gây bức xúc trong dư luận; giúp lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương dễ dàng nắm bắt các sự việc, vấn đề liên quan đến cơ quan, đơn vị, địa phương một cách kịp thời, nhanh chóng. Trên cơ sở những thông tin báo chí phản ánh, tại các Báo cáo tình hình báo chí hằng ngày, Ban Tuyên giáo Thành ủy đã báo cáo, đề xuất Thường trực Thành ủy kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo xử lý các vấn đề liên quan.
Tuy nhiên, đồng chí Phan Nguyễn Như Khuê cũng cho rằng, cùng với những mặt được, các cơ quan báo chí cũng đã bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót trong quá trình thông tin; có lúc còn thiếu bám sát nội dung chỉ đạo của các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí của Trung ương và TP dẫn đến việc đăng phát thông tin thiếu chính xác, gây hiệu ứng tiêu cực trong xã hội; còn tình trạng một số cơ quan báo chí, tạp chí điện tử của các cơ quan Trung ương đã đăng tin bài chưa chính xác, thiếu kiểm chứng nguồn tin./.
PV
(Nguồn: ThanhtraVietNam)
Chiều ngày 28/2, Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương đã tổ chức Hội nghị nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền nội dung cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tại điểm cầu trung tâm có sự tham dự của đồng chí Nguyễn Văn Thể – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, đồng chí Lê Hoài Trung – Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối, Bí thư Đảng ủy, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương, đồng chí Lại Xuân Lâm – Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Khối, Bí thư Đảng ủy cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, đồng chí Nguyễn Quang Trường – Phó Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, đồng chí Đỗ Việt Hà – Phó Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương.
Tại điểm cầu Thanh tra Chính phủ có dự tham dự của các đồng chí Phó Tổng Thanh tra Chính phủ: Đặng Công Huẩn, Bùi Ngọc Lam, Trần Văn Minh, Lê Sỹ Bảy cùng các đồng chí Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Thanh tra Chính phủ, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy, Lãnh đạo các cục, vụ, đơn vị, Trưởng các đoàn thể Thanh tra Chính phủ; Cấp ủy các đảng bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc Đảng bộ Thanh tra Chính phủ; Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ sở; Cấp ủy các chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở.
Cuốn sách về nội dung gồm 3 phần: Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam; nhất quán phương châm “Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm từ xa, cả ngọn lẫn gốc”; trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt.
Nội dung cuốn sách là tập hợp các bài viết tổng quan công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đúc rút từ kinh nghiệm thực tiễn phong phú, thể hiện sự chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, toàn diện và đầy sức thuyết phục của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, góp phần làm sáng rõ bước phát triển nhận thức, tư duy lý luận của Đảng ta về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Các quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (Ban Chỉ đạo) trong các bài phát biểu kết luận tại 36 phiên họp của Ban Chỉ đạo, cuộc họp của Thường trực Ban Chỉ đạo, không đăng toàn văn mà tập hợp theo các nhóm vấn đề lớn, quan trọng, được chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, thể hiện tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, nhất quán của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Các bài viết của đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tập hợp qua nhiều thời kỳ, trên nhiều cương vị công tác, đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau (có bài viết từ năm 1973 đến nay vừa tròn 50 năm) cho thấy tầm nhìn xa của đồng chí về các vấn đề xây dựng Đảng; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và phát triển đất nước.
Cuốn sách được trình bày xen kẽ với 111 bức ảnh minh họa (có những bức ảnh lần đầu tiên được công bố), được sắp xếp theo trật tự thời gian và gắn với các sự kiện, hoạt động của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo, làm tăng độ hấp dẫn, sinh động của cuốn sách.
Cuốn sách được trình bày theo phong cách báo chí hiện đại để gần gũi hơn với đông đảo bạn đọc, góp phần lan tỏa sâu, rộng tinh thần, thái độ kiên quyết, rõ ràng, dứt khoát của Đảng, Nhà nước và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Nguyễn Văn Thể – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương nhấn mạnh tầm quan trọng của cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, đồng thời đề nghị các cơ quan, tổ chức, đơn vị nghiêm túc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để đồng sức, đồng lòng từ trên xuống dưới trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta./.
K. Dung
(Nguồn: ThanhtraVietNam)
Ngày 27/2, tại trụ sở Thanh tra Chính phủ, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Đặng Công Huẩn đã chủ trì buổi công bố Quyết định thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại Tổng Công ty Đầu tư Phát triển DIC.

Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái tại Văn bản số 341, ngày 3/2/2023 của Văn phòng Chính phủ; Thanh tra Chính phủ ban hành Quyết định số 38/QĐ-TTCP về việc bổ sung kế hoạch thanh tra năm 2023, trong đó có việc thanh tra chấp hành quy định pháp luật trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại Tổng Công ty Đầu tư Phát triển DIC.
Theo Quyết định số 49/QĐ- TTCP, Đoàn Thanh tra gồm 9 thành viên do ông Nguyễn Đức Hương, Phó Cục trưởng Cục giải quyết khiếu nại, tố cáo khu vực III (Cục III) làm Trưởng đoàn có trách nhiệm thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân liên quan trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển DIC.
Thời hạn thanh tra là 30 ngày làm việc (không kể ngày nghỉ, ngày lễ) kể từ ngày công bố quyết định thanh tra. Đoàn thanh tra có nhiệm vụ tiến hành thanh tra theo nội dung quy định và kế hoạch thanh tra được Tổng TTCP phê duyệt.

Phát biểu tại buổi công bố quyết định thanh tra, Phó Tổng TTCP Đặng Công Huẩn cho biết, đây là cuộc thanh tra thực hiện theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ. Phó Tổng Thanh tra Đặng Công Huẩn yêu cầu đoàn thanh tra trong quá trình thực hiện phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật, phân công cán bộ hợp lý, tránh làm ảnh hướng đến hoạt động bình thường của đơn vị; làm việc một cách minh bạch, công khai, thực hiện nghiêm túc các nội dung được phê duyệt, đảm bảo đúng thời gian và nguyên tắc, tổ chức hoạt động đoàn thanh tra.
Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Đặng Công Huẩn đề nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Ủy ban quản lý vốn cùng các đơn vị liên quan cung cấp hồ sơ, tài liệu, đồng thời, cử cán bộ làm đầu mối, phối hợp làm việc với Đoàn Thanh tra, tạo điều kiện thuận lợi giúp đoàn làm việc hiệu quả và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đại diện Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước nhất trí với quyết định của TTCP. Đồng thời cho biết, sẵn sàng cung cấp hồ sơ, tài liệu cần thiết cho Đoàn Thanh tra và cử cán bộ phối hợp làm việc với Đoàn bảo đảm theo đúng quy định.
PV
(Nguồn: TTT – Thanh tra Chính phủ)
