Luật Thanh tra được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011. Trên cơ sở quy định của Luật Thanh tra, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn về các vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra[1]. Các quy định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng, toàn diện cho tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước và hoạt động của các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Qua thanh tra, ngành Thanh tra đã phát hiện, xử lý nhiều vi phạm pháp luật, đồng thời kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục những bất cập, sơ hở trong quản lý, trong chính sách, pháp luật; kết quả thanh tra đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ trong việc phòng ngừa vi phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Cùng với sự phát triển, hội nhập sâu rộng của đất nước và phát triển kinh tế thị trường, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã xuất hiện những yêu cầu mới đối với công tác quản lý nhà nước nói chung và đối với tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra nói riêng. Những thay đổi này đã dẫn đến những quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra không còn phù hợp, gây khó khăn, hạn chế cho công tác thanh tra và quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, những chính sách về tổ chức bộ máy, về phân cấp, phân quyền trong quản lý và các quy định khác có liên quan cũng làm cho các chính sách trong Luật Thanh tra trở nên bất cập, không còn phù hợp sau hơn 10 năm được ban hành.
1. Nhận diện những bất cập
Thứ nhất, bất cập về tổ chức: Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan thực hiện chức năng thanh tra bao gồm các cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Cơ quan thanh tra nhà nước gồm các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện) và cơ quan thanh tra ngành, lĩnh vực (Thanh tra bộ, Thanh tra sở). Các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành được quy định tại Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành và các Nghị định về thanh tra ngành, lĩnh vực (khoảng 20 Nghị định). Bên cạnh đó còn có các cơ quan thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế như cơ quan thanh tra hàng hải, hàng không, chứng khoán, an toàn bức xạ hạt nhân,… Về cơ bản, thanh tra theo cấp hành chính không có những bất cập lớn. Thanh tra Chính phủ vừa thực hiện quản lý nhà nước về thanh tra, trong đó có tổ chức thi hành pháp luật về thanh tra, nhằm làm cho pháp luật đi vào cuộc sống và thực hiện thanh tra theo thẩm quyền. Ở khía cạnh này, Thanh tra Chính phủ vẫn đang thực hiện tốt, hiệu quả chức năng thanh tra của mình. Còn về cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ thì không hoàn toàn thuộc phạm vi điều chỉnh cụ thể của Luật Thanh tra. Có chăng là đặt ra vấn đề tổ chức các “cơ quan thanh tra” trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ hay không?
Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Về cơ bản, tổ chức của Thanh tra tỉnh phù hợp, đáp ứng việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay, Ban tiếp công dân cấp tỉnh không gắn với Thanh tra tỉnh, nên giữa công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo bị tách rời, không liền mạch. Điều này cũng thể hiện sự không thống nhất khi Ban tiếp công dân Trung ương thì thuộc Thanh tra Chính phủ, các công chức là thanh tra viên, còn Ban tiếp công dân tỉnh thì không thuộc các cơ quan thanh tra, không phải là thanh tra viên. Đây cũng là bất cập đối với việc tổ chức thanh tra huyện và ban tiếp công dân cấp huyện. Ngoài ra, Thanh tra huyện còn bộc lộ bất cập trong tổ chức biên chế và hoạt động. Theo thống kê, số cuộc thanh tra trung bình của thanh tra huyện là 04 – 05 cuộc/năm, biên chế từ 03 – 05 người, chủ yếu là tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo[2]. Điều này đã được nhận diện và đưa ra giải pháp trong Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo hướng không tổ chức thanh tra huyện trực thuộc Chủ tịch huyện. Và ở dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi) đầu tiên cũng đã quy định theo hướng này.
Về thanh tra theo ngành, lĩnh vực, theo quy định, mỗi bộ chỉ thành lập một cơ quan thanh tra, với trung bình khoảng 30 biên chế, không phụ thuộc vào quy mô, đặc điểm và yêu cầu quản lý của mỗi ngành, lĩnh vực cũng như tinh thần phân cấp, phân quyền mạnh mẽ và sự tự chủ của các cơ quan quản lý trong việc tổ chức cơ quan thanh tra. Ở các Bộ, có các tổng cục, cục được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, có các công chức chuyên môn được thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có các cục, vụ, phòng ban chuyên trách thực hiện tham mưu về công tác thanh tra, kiểm tra. Với thanh tra sở, bất cập về tổ chức được thể hiện rõ hơn. Thanh tra sở được tổ chức giống nhau ở tất cả các tỉnh mà không căn cứ vào nhu cầu quản lý cũng như khả năng bố trí biên chế của từng địa phương. Theo thống kê, có nhiều cơ quan thanh tra sở chỉ có từ 01 – 02 người, hoặc 03 – 04 người, như thanh tra Sở Tư pháp, Sở Khoa học và công nghệ,…[3]. Với số lượng ít như vậy thì khó có thể tổ chức thanh tra chuyên nghiệp, bên cạnh đó cơ quan thanh tra còn phải thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ khác. Theo yêu cầu của Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định về tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì để thành lập phòng cần tối thiểu 05 biên chế đối với tỉnh loại II và loại III, còn tỉnh loại I là 06 biên chế và Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh phải có từ đủ 07 biên chế. Do vậy, với thực tiễn hiện nay thì về mặt tổ chức cần sắp xếp lại để đáp ứng yêu cầu của pháp luật về tổ chức cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các thanh tra này.
Thứ hai, bất cập về hoạt động: Kết quả hoạt động thanh tra thể hiện qua số cuộc thanh tra, chất lượng các cuộc thanh tra và việc thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra. Theo thống kê, hoạt động của các cơ quan thanh tra thể hiện một số những bất cập phổ biến như thời hạn tiến hành thanh tra kéo dài, kết quả thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, còn những sai phạm trong hoạt động thanh tra,… mà nguyên nhân chủ yếu do những hạn chế, rủi ro từ khía cạnh pháp lý – chưa có quy định đầy đủ để kiểm soát hoạt động thanh tra, bao gồm cả cơ chế kiểm soát chặt chẽ từ cơ quan quản lý, từ người ra quyết định thanh tra đối với Đoàn thanh tra và cả đối tượng thanh tra,…
Bất cập trước hết từ việc chưa phân định rõ, rạch ròi giữa hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm tra thường xuyên của quản lý. Điều này đã được đề cập trong Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Do chưa có sự phân định rõ ràng nên dẫn đến bất cập trong hoạt động, nhất là trong áp dụng trình tự, thủ tục trong hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành (Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16 tháng 10 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra). Luật Thanh tra hiện hành quy định các hình thức thanh tra, gồm thanh tra theo kế hoạch, thanh tra đột xuất và thanh tra thường xuyên. Trong đó, thanh tra thường xuyên với tính chất được mô tả như hoạt động kiểm tra thường xuyên của chủ thể quản lý. Điều này dẫn đến yêu cầu về trình tự, thủ tục, phương thức tiến hành sẽ khác với hoạt động thanh tra theo kế hoạch, nhất là thanh tra hành chính. Hình thức thanh tra thường xuyên là không phù hợp với tính chất của hoạt động thanh tra và lẫn lộn với hoạt động kiểm tra nhằm xử lý vi phạm hành chính. Vì thế, những nguyên tắc về hoạt động thanh tra sẽ khó áp dụng trong thực tế (chẳng hạn nguyên tắc công khai, việc ra quyết định thanh tra, công bố quyết định thanh tra, xác định đối tượng thanh tra, công bố Kết luận thanh tra,…).
Đối với cơ quan thực hiện chức năng thanh tra ở các bộ, ngành, hoạt động thanh tra về cơ bản do Thanh tra bộ thực hiện. Các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành theo quy định tại Nghị định số 07/2012/NĐ-CP đã không còn phù hợp. Khoảng 20 nghị định về thanh tra ngành, lĩnh vực đã phá vỡ quy định của Nghị định số 07/2012/NĐ-CP, đa số đều nhiều hơn 02 – 04 đơn vị được giao thực hiện chức năng thanh tra ở mỗi bộ, ngành. Hoạt động thanh tra của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra trong mỗi bộ có sự chồng chéo, trùng lặp do không thống nhất trong kế hoạch thanh tra. Việc không có cơ quan thanh tra độc lập trong các tổng cục, cục này đã làm mất đi sự chủ động của hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu quản lý.
Ngoài ra, sự chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm toán nhà nước hiện nay là khá phổ biến. Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước đã ban hành Quy chế phối hợp, trong đó có một số quy định cụ thể về phối hợp trong xây dựng kế hoạch kiểm toán, thanh tra; phối hợp xử lý trùng lặp về đơn vị được kiểm toán, đối tượng thanh tra; phối hợp trong việc sử dụng kết quả thanh tra, kiểm toán,… nhưng tình trạng này vẫn chưa được khắc phục. Các cố gắng phối hợp trong quá trình xây dựng kế hoạch cũng như thực tiễn hoạt động chỉ là giải pháp tình thế, giải pháp tạm thời cho vấn đề này. Do vậy, cần phân định rõ ràng, rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Thanh tra và Kiểm toán nhà nước, tạo cơ chế xử lý chồng chéo triệt để giữa hoạt động của các quan Thanh tra nhà nước và Kiểm toán Nhà nước trên thực tế.
Bên cạnh đó, nhiều vấn đề khác cần thiết quy định trong Luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay, như yêu cầu về công tác thanh tra, kiểm tra trong đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và cơ quan nhà nước không có chức năng quản lý nhà nước, việc một cuộc thanh tra có thể ban hành nhiều kết luận thanh tra, có thể sửa đổi, thay thế, huỷ bỏ kết luận thanh tra, việc thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra, việc giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra,… cũng là những vấn đề đang được đặt ra trên thực tiễn nhưng thiếu vắng các quy phạm điều chỉnh về vấn đề này.
Những bất cập trên cũng đã được nhận diện và đề cập đến trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng Luật Thanh tra (sửa đổi) nhằm triển khai, thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề này. Nghị quyết Trung ương số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cũng yêu cầu Chính phủ, các bộ, ngành tiếp tục thực hiện đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành và hiệu quả tổ chức thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành. Nghị quyết yêu cầu “Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về chức, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi hoạt động, mối quan hệ công tác của Kiểm toán nhà nước và các cơ quan kiểm tra, thanh tra các cấp để không chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ”; Nghị quyết Trung ương số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ chỉ rõ: Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành, của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên; Chiến lược Phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã chỉ rõ cần đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, bảo đảm mọi hoạt động đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ; tăng cường tính độc lập và chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra; đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan thanh tra theo hướng cơ quan theo cấp hành chính chuyển mạnh sang thực hiện chức năng giám sát, đánh giá hành chính và tăng cường thanh tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ công vụ, thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, cơ quan theo ngành, lĩnh vực tập trung vào thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; tăng cường hiệu lực thi hành các kết luận của các cơ quan thanh tra… Bên cạnh đó, việc thực thi Hiến pháp năm 2013 đặt ra yêu cầu đối với ngành Thanh tra thực hiện hiệu quả hơn các chức năng, nhiệm vụ về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
2. Những chính sách lớn trong dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi)
Dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi) được xây dựng theo hướng sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan thanh tra cho phù hợp với yêu cầu quản lý của từng ngành, lĩnh vực, bảo đảm thu gọn đầu mối các cơ quan thanh tra nhưng vẫn bảo đảm hoạt động quản lý nhà nước trong tất cả các lĩnh vực đều được thanh tra, kiểm tra một cách có hiệu quả. Các hoạt động thanh tra sẽ được tăng cường theo hướng chuyên nghiệp, vừa bảo đảm tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, vừa bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước. Những chính sách lớn của dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi) gồm:
Thứ nhất, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra
Thanh tra là hoạt động của cơ quan thanh tra có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định để xem xét, đánh giá, xử lý việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước và kết quả thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được giao nhiệm vụ quản lý nhằm hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân; phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trật tự quản lý góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Dự thảo Luật quy định thẩm quyền, trách nhiệm tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra của thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc tổ chức, phối hợp hoạt động thanh tra và kiểm tra, bảo đảm hiệu quả của công tác quản lý nhưng không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng quản lý; chú trọng kiểm tra mang tính chất thường xuyên nhằm nhằm đôn đốc, hướng dẫn, bảo đảm tiến độ và chất lượng công việc, phòng ngừa vi phạm và xử lý vi phạm; thực hiện thanh tra khi cần thiết theo những trình tự thủ tục chặt chẽ và chuyên nghiệp. Những quy định này thể hiện quan điểm đề cao trách nhiệm kiểm tra thường xuyên, coi đó như một công cụ mà thủ trưởng các cơ quan quản lý phải hết sức coi trọng và sử dụng để bảo đảm hiệu quả quản lý của mình. Hoạt động thanh tra chỉ thực hiện khi cần thiết, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc ở những nơi, những lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ vi phạm pháp luật qua thực tiễn quản lý hoặc để đánh giá toàn diện việc thực hiện một cơ chế, chính sách lớn để có những điều chỉnh thích hợp.
Thứ hai, tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính
Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về các lĩnh vực thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong các lĩnh vực công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định trước đây, dự thảo Luật nhấn mạnh quyền hạn và trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ trong kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn theo tinh thần của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và trong công tác tiếp công dân.
Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Thanh tra tỉnh chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ. Dự thảo Luật cũng quy định chuyển Ban tiếp công dân cấp tỉnh trực thuộc Thanh tra tỉnh nhằm tạo sự thống nhất trong công quản lý nhà nước của Thanh tra tỉnh đối với hoạt động tiếp công dân, tạo sự thống nhất, gắn kết và liên thông trong hoạt động tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thanh tra huyện là cơ quan của Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện nhiệm vụ thanh tra hành chính, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Khi đề nghị các chính sách trong Dự án Luật được Chính phủ thông qua đã đưa ra phương án không tổ chức thanh tra huyện để tinh giản đầu mối. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng cần thiết phải có tổ chức thanh tra để giúp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện trong công tác quản lý. Việc không tổ chức cơ quan thanh tra trực thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện sẽ làm mất đi công cụ thanh tra cần thiết trong việc bảo đảm quản lý nhà nước trên địa bàn. Vì vậy, hiện nay, dự thảo Luật đã thiết kế lại theo hướng giữ nguyên và giao Thanh tra huyện quản lý Ban tiếp công dân cấp huyện.
Thứ ba, tổ chức lại các cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực
Thanh tra tổng cục, cục thuộc Bộ được thành lập để thực hiện thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý của Tổng Cục trưởng, Cục trưởng. Việc thành lập cơ quan thanh tra Tổng cục, Cục thuộc Bộ sẽ do Chính phủ quy định theo đề nghị của Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực và Tổng Thanh tra Chính phủ. Quy định này nhằm bảo đảm việc thành lập các cơ quan thanh tra đáp ứng nhu cầu quản lý của Bộ trưởng, tránh việc quy định như hiện nay. Nghị định số 07/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định cụ thể các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành của các Bộ đã không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn quản lý, dẫn đến các nghị định quy định về thanh tra ngành, lĩnh vực đã quy định mở rộng hơn, không còn bảo đảm các quy định khung của Nghị định. Việc thành lập thanh tra Tổng cục, cục thuộc Bộ về cơ bản không làm phát sinh thêm tổ chức hay biên chế do hiện nay vẫn có các tổ chức làm thanh tra chuyên ngành được tổ chức thành các vụ, cục hay phòng thanh tra – pháp chế, thanh tra – kiểm tra (sau khi Luật Thanh tra năm 2010 có hiệu lực, các cơ quan thanh tra chuyên ngành phần lớn chuyển thành các vụ, cục hay phòng, ban).
Đối với Thanh tra sở, không xác định cụ thể các lĩnh vực được thành lập thanh tra sở mà quy định theo hướng việc thành lập Thanh tra sở do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định sau khi có sự thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực. Quy định này giống tinh thần của Luật Thanh tra năm 2010 nhằm bảo đảm tính chủ động cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong thực hiện quản lý nhà nước các lĩnh vực trên địa bàn. Việc thành lập do Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định và bảo đảm về biên chế cùng các điều kiện khác cho việc tổ chức cơ quan thanh tra theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật Thanh tra.
Nhiều hoạt động được quy định là thanh tra chuyên ngành hiện nay (thanh tra thường xuyên) thực chất là hoạt động kiểm tra sẽ được cố gắng phân định và không nằm trong hệ thống các cơ quan thanh tra, không hoạt động theo quy định của Luật Thanh tra. Các hoạt động này thực hiện theo các quy định về kiểm tra chuyên ngành với mục đích để giữ gìn trật tự, kỷ cương mà không cần thiết phải giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho các cơ quan này như hiện nay, ví dụ như Đội quản lý trật tự xây dựng, Ban An toàn vệ sinh thực phẩm,… Điều này là phù hợp với thực tế yêu cầu quản lý cũng như tách bạch giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra mà hiện nay đang có sự lẫn lộn, gây ra sự phản ứng khi cho rằng có quá nhiều cơ quan tiến hành thanh tra, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, đề cao trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm, thẩm quyền về thanh tra của Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Quy định trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, cho ý kiến chỉ đạo đối với các dự thảo Kết luận thanh tra, xử lý kịp thời kiến nghị thanh tra và trực tiếp chỉ đạo thực hiện Kết luận thanh tra. Căn cứ vào các quy định của pháp luật chuyên ngành, Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm tổ chức hoạt động kiểm tra thường xuyên để xử lý kịp thời hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân, bảo đảm trật tự, hiệu quả của công tác quản lý trong lĩnh vực và địa bàn thuộc trách nhiệm của mình.
Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức, phối hợp hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra với hoạt động kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý trong phạm vi quản lý của bộ, ngành và địa phương, bảo đảm không trùng lặp, chồng chéo, gây phiền hà cho cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm các hoạt động kiểm tra được thực hiện thường xuyên, liên tục.
Thứ năm, quy định cụ thể, chặt chẽ cơ chế giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra
Giám sát hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động của Đoàn thanh tra là cần thiết, nhằm bảo đảm hoạt động của Đoàn thanh tra đúng pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động thanh tra, tránh lạm quyền, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra. Hiện nay, việc giám sát chủ yếu thực hiện qua báo cáo của Đoàn thanh tra nên khó đảm bảo tính khách quan, chính xác. Người ra quyết định thanh tra, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp công chức tham gia Đoàn thanh tra chỉ thực hiện đánh giá, kiểm soát việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra trên thực tế qua báo cáo công việc của Đoàn thanh tra và qua kết quả giám sát của Tổ giám sát hay người được giao nhiệm vụ giám sát trực tiếp. Điều này không bảo đảm tính chặt chẽ, chính xác, kịp thời của việc kiểm soát hoạt động thanh tra. Do vậy, trên cơ sở thực tiễn thực hiện giám sát hiện nay, dự thảo Luật tiếp cận và quy định cơ chế giám sát chặt chẽ hơn, giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao của các thành viên Đoàn thanh tra, của Trưởng đoàn thanh tra. Các báo cáo được thực hiện theo tiến độ thời gian, chi tiết, cụ thể và phản ánh đầy đủ việc thực hiện nhiệm vụ được phân công của các thành viên Đoàn thanh tra.
Thứ sáu, xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, giữa thanh tra và kiểm toán
Về chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra, dự thảo Luật quy định Bộ, tỉnh chỉ có một Kế hoạch thanh tra do Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành. Kế hoạch thanh tra của Bộ, của tỉnh được xây dựng trên cơ sở Định hướng chương trình thanh tra và hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ. Trong quá trình thực hiện, nếu có sự chồng chéo, trùng lặp thì cơ quan thanh tra cấp trên sẽ thực hiện nội dung thanh tra đó.
Về chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm toán, dự thảo Luật quy định cụ thể về trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước phải có đánh giá, tổng kết kết quả công tác thanh tra, kiểm toán để có căn cứ xây dựng kế hoạch cho năm tiếp theo. Việc xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm toán hằng năm phải có sự trao đổi, thống nhất giữa Tổng Thanh tra Chính phủ và Tổng Kiểm toán nhà nước, thực hiện nguyên tắc một nội dung hoạt động của tổ chức, cá nhân chỉ có thể là đối tượng của một cơ quan thanh tra hoặc kiểm toán. Khi tiến hành thanh tra, kiểm toán, nếu phát hiện có sự chồng chéo, trùng lặp thì Thủ trưởng cơ quan thanh tra và Trưởng kiểm toán khu vực, chuyên ngành phải trao đổi, thống nhất để có giải pháp xử lý và bảo đảm tính kế thừa trong hoạt động giữa hai cơ quan, đơn vị.
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ
[1] Theo Báo cáo tổng kết 09 năm thi hành Luât Thanh tra: Chính phủ đã ban hành 09 nghị định hướng dẫn thi hành, 20 nghị định về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành, lĩnh vực, 01 nghị quyết về công tác thanh tra; Thủ tướng Chính phủ ban hành 07quyết định và 02 chỉ thị; Thanh tra Chính phủ đã ban hành 25 thông tư; các bộ, ngành đã ban hành hơn 54 thông tư hướng dẫn về tổ chức, hoạt động của Thanh tra bộ, ngành, thanh tra chuyên ngành. Các địa phương đã ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản quy định về tổ chức, hoạt động thanh tra.
[2] Báo cáo theo dõi thi hành pháp luật về thanh tra năm 2020 của Thanh tra Chính phủ
[3] Báo cáo theo dõi thi hành pháp luật về thanh tra năm 2020 của Thanh tra Chính phủ