Trong các quy định pháp luật, giám sát đã được đề cập đến trong một số văn bản như: Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Nghị định số 49/2014/NĐ-CP ngày 20 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ về giám sát, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành pháp luật và các quyết định của chủ sở hữu… Theo đó, “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý[1] ”; “Giám sát doanh nghiệp nhà nước là hoạt động theo dõi, tổng hợp và phân tích, đánh giá thường xuyên hoặc định kỳ của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định về việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”. Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội được ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị quy định “Giám sát là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
Về cơ bản, các quan niệm dù đưa ra hoặc không đưa ra một cách đầy đủ về chủ thể, tiến trình thực hiện, phương thức và các giá trị, tác động của hoạt động giám sát, nhưng đều toát lên được hai nội dung cấu thành cơ bản của giám sát đó là “theo dõi” và “đánh giá”.
Trong bộ máy nhà nước ta, giám sát thường được chia thành hai loại:
Giám sát mang tính quyền lực nhà nước hay còn gọi là giám sát bên trong hệ thống, là loại hình giám sát được tiến hành bởi chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống các cơ quan nhà nước khác theo những nguyên tắc nhất định về sự phân công quyền lực nhà nước. Cụ thể là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; là hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan nhà nước ở địa phương. Ngoài ra còn có hoạt động giám sát của Viện kiểm sát, Tòa án đối với bộ máy nhà nước thông qua hoạt động truy tố, kiểm sát tư pháp, xét xử và giám sát thông qua hoạt động của các cơ quan thanh tra. Các phương pháp, cách thức mà loại hình giám sát này áp dụng luôn mang tính quyền lực nhà nước và nó trực tiếp mang lại những hậu quả có tính pháp lý.
Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước hay còn gọi là giám sát từ bên ngoài là loại hình giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước. Đó là hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, của các cơ quan báo chí, của nhân dân đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Từ quan niệm về giám sát nêu trên, khi tiếp cận quan niệm về giám sát hành chính có thể hiểu đây là giám sát đối với nền hành chính nhà nước hay với các cơ quan hành chính, với cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước. Đây là hình thức giám sát của các chủ thể đối với hoạt động hành chính nhà nước – hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, gồm hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước trong quản lý xã hội theo khuôn khổ pháp luật.
2. Giám sát hành chính hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp đều bao gồm các cấu thành như chủ thể thực hiện giám sát, đối tượng chịu sự giám sát và phạm vi, nội dung của giám sát hành chính. Điểm khác biệt giữa các cách tiếp cận thể hiện ở chủ thể thực hiện giám sát, từ nội bộ nền hành chính hay là các chủ thể bên ngoài hệ thống các cơ quan hành chính, như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức đoàn thể, báo chí và người dân. Theo cách tiếp cận trên về giám sát hành chính, trên cơ sở tiếp cận hai khái niệm cấu thành là giám sát và hành chính, có thể thấy những đặc điểm cụ thể trong nội dung cấu thành của hoạt động giám sát hành chính như sau:
Thứ nhất, về đối tượng của giám sát hành chính: Đối tượng của giám sát hành chính là bản thân nền hành chính nhà nước, bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước. Kiểm soát thông qua hoạt động giám sát đối với các cơ quan hành chính và cán bộ, công chức là chức năng của nhà nước, nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước, thiết lập trật tự trong quản lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, nhà nước và xã hội. Kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp nói chung luôn là trọng tâm trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
Các cơ quan quản lý nhà nước là đối tượng đầu tiên của hoạt động giám sát đối với nền hành chính nhà nước. Đây là các cơ quan chuyên thực hiện các hoạt động chấp hành và điều hành, thực thi pháp luật, áp dụng pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống. Các cơ quan này chủ yếu là bộ máy hành chính nhà nước, bao gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân và các cơ quan tham mưu của Ủy ban nhân dân các cấp. Các cơ quan quản lý nhà nước được thiết lập theo trật tự, có tính thứ bậc chặt chẽ, có sự phân công, phân cấp về thẩm quyền, gắn liền với việc giải quyết các công việc cụ thể liên quan đến quyền và nghĩa cụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Các cơ quan này đều có thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính cá biệt, thực hiện hành vi hành chính thể hiện chức năng quản lý nhà nước.
Hoạt động giám sát hành chính nhằm xem xét, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước. Các nhiệm vụ, quyền hạn này được quy định dựa trên thẩm quyền của từng cơ quan.
Đối tượng thứ hai của giám sát hành chính là cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước. Đây là các chủ thể nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện các hành vi cụ thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước. Giám sát hoạt động của các cán bộ, công chức chính là gián tiếp giám sát các cơ quan hành chính nhà nước. Thông qua các hoạt động cụ thể của cán bộ, công chức mà đánh giá về hoạt động của các cơ quan. Việc thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan được phản ánh qua hoạt động – hành vi hành chính của các cán bộ, công chức và việc ban hành các quyết định cũng thông qua hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước. Do vậy, nếu tiếp cận phù hợp nhất, giám sát hành chính chính là việc giám sát đối với các hoạt động của cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện hoạt động công vụ nhân danh nhà nước.
Gắn liền với đối tượng chịu sự giám sát hành chính là khách thể hay nội dung của giám sát hành chính. Đây chính là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, của cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước.
Nội dung của hoạt động giám sát hành chính xuất phát từ nội dung hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Sẽ có nhiều cách tiếp cận và phân chia khác nhau xuất phát từ cách tiếp cận và phân chia nội dung hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nhưng về cơ bản, có thể phân chia nội dung của hoạt động giám sát hành chính bao gồm giám sát việc thực thi các văn bản pháp luật, pháp quy, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước và giám sát việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính. Trong đó nổi bật và quan trọng là giám sát việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính. Giám sát việc ban hành các quyết định hành chính nhằm bảo đảm cho việc thực hiện quyền hành chính được đúng đắn, trước khi các hành vi hành chính được diễn ra trên thực tế. Nếu nội dung này không được quan tâm trong quá trình quản lý nhà nước, không được giám sát chặt chẽ thì điều đó rất có thể dẫn đến nhiều hệ lụy không tốt. Quyết định hành chính được đề cập ở đây là quyết định hành chính cá biệt. Là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hay người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hay một số đối tượng cụ thể. Vấn đề đặt ra là quyết định hành chính cá biệt do cơ quan hành chính nhà nước ban hành có số lượng rất lớn, phát sinh hàng ngày, vậy các cơ quan có thẩm quyền có thể theo dõi, kiểm tra đánh giá toàn bộ hay chỉ kiểm tra, đánh giá khi có phát sinh khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị hoặc nghi ngờ có dấu hiệu sai phạm.
Giám sát việc thực hiện hành vi hành chính của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hay không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định pháp luật. Khác với quyết định hành chính phải thể hiện bằng văn bản, hành vi hành chính được biểu hiện bằng những việc làm thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động đối với những nhiệm vụ, công vụ được giao, thể hiện cụ thể như hành động không đúng hoặc làm trái với các quy định của pháp luật, cũng có thể là việc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà theo quy định của pháp luật họ phải thực hiện. Với việc hành động hoặc không hành động đó của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Giám sát hành vi hành chính của cơ quan hành chính, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính giúp theo dõi, phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm để xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về chủ thể thực hiện giám sát hành chính: Việc thực hiện giám sát, đánh giá đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. Tiếp cận một cách chung nhất, giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan quyền lực nhà nước – trong mối quan hệ kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp; trong phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các thiết chế thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện việc kiểm soát, giám sát đối với Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp và các cơ quan chuyên môn. Bên cạnh đó là các cơ quan khác được trao các thẩm quyền nhất định trong việc thực hiện giám sát, đánh giá, kiểm tra,… theo lĩnh vực chuyên môn nhất định như thanh tra, kiểm toán, kiểm sát, tòa án,… Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân Việt Nam và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện 03 chức năng chính, đó là thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Như vậy, thẩm quyền giám sát tối cao thuộc về Quốc hội, thực hiện giám sát đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước như Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan nhà nước ở địa phương. Việc giám sát được thực hiện thông qua các kỳ họp, thông qua hoạt động chất vấn và thông qua hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các Ủy ban và Hội đồng dân tộc, của các đại biểu Quốc hội,… Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương cũng thực hiện quyền giám sát tương tự nhưng trong phạm vi địa phương, được quy định cụ thể trong Luật tổ chức chính quyền địa phương.
Trong các thiết chế thực hiện quyền giám sát khác có giám sát bên trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, được thực hiện bởi các cơ quan thanh tra nhà nước. Đây là thiết chế thực hiện quyền giám sát rộng bao gồm cả các cơ quan nước và đối với xã hội thông qua hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thông qua hoạt động của mình, các cơ quan thanh tra thực hiện xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Các chủ thể thực hiện giám sát đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước còn có các cơ quan tư pháp như thông qua hoạt động kiểm sát tư pháp của Viện kiểm sát, hoạt động xét xử của Tòa án hay hoạt động kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Tuy phạm vi và tính chất giám sát khác nhau, nhưng những chủ thể này đều thực hiện giám sát trong phạm vi thẩm quyền của mình, góp phần vào việc bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước được đúng đắn, việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước được hiệu quả, hạn chế những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, thất thoát, lãng phí các nguồn lực của đất nước.
Thứ ba, về phương thức thực hiện giám sát và giá trị pháp lý của kết quả giám sát hành chính: Giám sát trước hết là hoạt động theo dõi, xem xét và đánh giá. Việc thực hiện giám sát với mỗi chủ thể khác nhau theo thẩm quyền sẽ có các phương thức khác nhau. Với nhóm chủ thể từ phía xã hội, giám sát được bắt nguồn từ bản thân vị trí và chức năng của tổ chức. Có những chủ thể mang tính phổ quát như báo chí, các cơ quan truyền thông, phương thức thực hiện giám sát được thực hiện theo phương thức hoạt động của chính các cơ quan báo chí, truyền thông, đó là việc đưa tin và phản ánh thực tế hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ có những hành động tiếp theo để chấn chỉnh, xử lý nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, thậm chí các vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức và cơ quan hành chính nhà nước. Với chủ thể thực hiện giám sát là các cá nhân công dân, quyền giám sát bắt nguồn từ tiếp cận quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Phương thức giám sát của người dân được thực hiện qua việc phản ánh, qua thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, tố giác,… với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những bất cập, vi phạm của các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức. Cụ thể việc phản ánh hay khiếu nại, tố cáo,… được thực hiện theo những trình tự, thủ tục cụ thể, chặt chẽ được pháp luật ghi nhận. Các thông tin phản ánh của công dân là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và xử lý theo pháp luật. Ở nhóm chủ thể này, giá trị của hoạt động giám sát hay tính pháp lý của các kiến nghị giám sát không cao, thông thường mang tính khuyến nghị, thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Kết quả xử lý phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm của các cơ quan tiếp nhận và xử lý các thông tin phản ánh. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, giám sát xã hội đang được ghi nhận với những đóng góp tích cực do tính sâu rộng của nó. Bên cạnh đó, việc ghi nhận vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, của báo chí và các phương tiện truyền thông; việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân,… cũng đã góp phần làm cho hiệu quả giám sát hành chính từ phía xã hội được bảo đảm thực hiện và có hiệu quả cao.
Với chủ thể là các cơ quan quyền lực nhà nước, đây là nhóm chủ thể thực hiện chức năng, thẩm quyền giám sát được quy định trong Hiến pháp và thể chế hóa trong các văn bản pháp luật với thẩm quyền, đối tượng, phương thức thực hiện, giá trị pháp lý của kiến nghị giám sát. Với mỗi chủ thể có các phương thức và giá trị pháp lý của các kiến nghị giám sát khác nhau. Cụ thể như sau:
Giám sát của Quốc hội: Đây là hoạt động giám sát toàn diện trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của hoạt động hành chính Nhà nước. Giám sát của Quốc hội thực hiện thông qua nhiều hình thức, tùy thuộc vào từng nội dung, tính chất của vụ việc. Có các hình thức giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội như: Giám sát tại các kỳ họp thông qua việc nghe báo cáo của Chính phủ, Thủ tướng; Chất vấn và nghe trả lời chất vấn của Bộ trưởng, các thành viên Chính phủ về các mặt mà Quốc hội quan tâm. Các thành viên Chính phủ có trách nhiệm trả lời trực tiếp văn bản hoặc trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát thông qua các Uỷ ban và Hội đồng của Quốc hội thực hiện các hoạt động thẩm tra, điều tra và trình bày kết quả trước Quốc hội; Các đại biểu một mặt giúp Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ, mặt khác còn trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ quản lý, có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp và khắc phục việc làm vi phạm pháp luật, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, yêu cầu các cơ quan, đơn vị phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu quan tâm. Ngoài ra, Quốc hội còn tổ chức các đoàn giám sát, qua các cuộc tiếp xúc giữa đại biểu và các cử tri, để lắng nghe yêu cầu, kiến nghị của cử tri, hoặc tham dự kỳ họp của Hội đồng nhân dân. Trong các trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các đoàn thanh tra, Uỷ ban thanh tra để kiểm tra, xem xét những vụ việc đặc biệt. Quốc hội cũng thực hiện giám sát thông qua xem xét báo cáo công tác và các báo cáo chuyên đề của Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác. Trên cơ sở xem xét các báo cáo của Chính phủ, Quốc hội có thể cho ý kiến hoặc trực tiếp yêu cầu Chính phủ có những điều chỉnh nhất định về chủ trương, kế hoạch hoặc các biện pháp quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện trong từng lĩnh vực nhất định của Chính phủ. Bên cạnh đó, Quốc hội còn giám sát công tác ban hành văn bản của các cơ quan nhà nước, trong đó đặc biệt là việc ban hành văn bản pháp quy và văn bản hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước, mà đứng đầu là Chính phủ và các bộ, ngành. Quốc hội cũng giám sát thông qua các phiên giải trình, điều trần và bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Căn cứ vào kết quả giám sát, Quốc hội có thể ra các quyết định tác động vào tổ chức, nhân sự và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước như: Về tổ chức – quyết định thành lập hay bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ, thành lập mới, chia, nhập, điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập, giải thể các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; Về nội dung – bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,… khi trái với Hiến pháp và luật; Về nhân sự: Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh cao nhất của bộ máy hành chính nhà nước, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng về bầu phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Giám sát của Hội đồng nhân dân: Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp sẽ thực hiện quyền giám sát đối với Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân, các đơn vị đóng trên địa phương mình. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát thông qua các hoạt động như: xem xét báo cáo, trả lời chất vấn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên Ủy ban nhân dân, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân, xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp, thành lập Đoàn giám sát, bỏ phiếu tín nhiệm.
Căn cứ vào kết quả giám sát, Hội đồng nhân dân có quyền: bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp, ra Nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết; miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ủy viên thường trực Ủy ban nhân dân.
Giám sát của các thiết chế khác do Quốc hội thành lập: Ở một số nước, Quốc hội lập ra cơ quan trực thuộc để thực hiện chức năng giám sát hành chính một cách thường xuyên, cụ thể, chuyên biệt như Thanh tra Quốc hội. Ở Việt Nam, Quốc hội thành lập cơ quan Kiểm toán nhà nước thực hiện giám sát đặc biệt nhằm kiểm tra, đánh giá, xác nhận tính đúng đắn, trung thực, tính kinh tế, hiệu quả đối với hoạt động thu chi của các cơ quan có sử dụng ngân sách nhà nước. Thông thường, ở tất cả các nước đều có kiểm toán nhà nước nhưng cách thức tổ chức và vị trí pháp lý là khác nhau. Ở nước ta, Kiểm toán Nhà nước hiện nay là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cơ quan kiểm toán thực hiện qua hoạt động kiểm toán đối với các cơ quan hành chính nhà nước ở một số phương diện như: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Trên cơ sở kiểm toán, các cơ quan kiểm toán ban hành các kết luận kiểm toán với các kiến nghị cụ thể như yêu cầu chấn chỉnh, thu hồi tiền, tài sản bị thất thoát, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các cơ quan, tổ chức, cá nhân có các vi phạm pháp luật.
Giám sát trong hệ thống hành pháp: Việc giám sát hành chính trong cùng hệ thống được thưc hiện bởi các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước thông qua việc kiểm tra, giám sát của cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới, của các thiết chế độc lập như các cơ quan thanh tra nhà nước. Việc giám sát này là một bảo đảm của chính các cơ quan hành chính nhà nước đối với hoạt động của mình được diễn ra theo đúng quy định, quy trình, chuẩn mực, quy tắc, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tiết kiệm và hiệu quả. Mỗi nước lại có hình thức tổ chức khác nhau như: cơ quan thanh tra, giám sát hành chính, cơ quan kiểm toán. Cơ quan thanh tra của Việt Nam là một bộ máy đặc biệt trong nội bộ hệ thống các cơ quan hành pháp. Có chức năng xem xét, kết luận đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật thanh tra và các quy định khác của pháp luật. Trên cơ sở đó thủ trưởng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra. Để tăng cường hiệu quả, hiệu lực của các kết luận thanh tra, trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước đã hình thành bộ phận theo dõi, đôn đốc và xử lý sau thanh tra.
Ngoài ra, các cơ quan thanh tra còn tiến hành hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Các khiếu nại, tố cáo về quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức được cơ quan thanh tra thụ lý và giải quyết theo quy định của pháp luật. Thông qua đó, các quyết định và hành vi sai phạm được xử lý. Hoạt động phòng, chống tham nhũng của cơ quan thanh tra nhà nước cũng góp phần phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí trong quá trình hoạt động của cơ quan hành chính và quá trình thực thi công vụ của cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính.
Giám sát của cơ quan tư pháp: Giám sát hành chính của cơ quan tư pháp chỉ xuất hiện ở mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án một số quốc gia trên thế giới. Giám sát hành chính của cơ quan tư pháp chỉ được tiến hành trên một vài nội dung nhất định, không mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp, toàn diện như giám sát hành chính của cơ quan thuộc hệ thống hành pháp. Thông thường, giám sát hành chính của cơ quan tư pháp được tiến hành thông qua việc Tòa án ra phán quyết đối với tính hợp pháp của các quyết định hành chính của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức bị tổ chức, công dân khởi kiện. Ở Việt Nam, tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân các cấp cũng tham gia vào việc giám sát hành chính thông qua việc xét xử các khiếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan hành chính theo quy định của pháp luật. Các phán quyết của Tòa hành chính không chỉ có tác dụng mang tính khuyến nghị đối với cơ quan hành chính mà còn tác dụng bắt buộc, Tòa án có thể hủy bỏ hoặc làm thay đổi quyết định, hành vi hành chính.
3. Giám sát hành chính là vấn đề không mới nhưng còn nhiều nội dung cần được nghiên cứu, làm rõ, nhất là theo hướng tiếp cận đây là hoạt động giám sát trong nội bộ nền hành chính nhà nước. Tiếp cận như vậy đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là phương thức và thẩm quyền, giá trị của các kết luận, kiến nghị giám sát đối với các cơ quan hành chính nhà nước và cơ bản là cơ quan nào trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước sẽ thực hiện việc giám sát này. Làm rõ điều này sẽ là cơ sở để giải quyết nhiều vấn đề, trong đó có việc hoàn thiện các thiết chế nhằm bảo đảm tính đúng đắn trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cũng như góp phần kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
TS. Trần Văn Long
Viện Khoa học Thanh tra
[1]Trích nguồn: Đại từ điển Tiếng Việt, Chủ biên Nguyễn Như Ý, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội 2002, tr.728