Tiếp tục duy trì tổ chức và hoạt động đối với: Thanh tra Bộ Quốc phòng, Thanh tra Bộ Công an, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Cơ yếu, Thanh tra Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Thanh tra Cục Hàng hải Việt Nam, Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam, Thanh tra Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Kết thúc hoạt động của cơ quan thanh tra: Cục Bổ trợ tư pháp, Kho bạc Nhà nước, Cục Dự trữ Nhà nước, Cục Thống kê; không thành lập cơ quan thanh tra Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên. Các cục trên thực hiện chức năng kiểm tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành: Không tổ chức thanh tra chuyên ngành mà thực hiện chức năng kiểm tra chuyên ngành và chức năng khác theo quy định của pháp luật.
Ở địa phương, kết thúc hoạt động của Thanh tra huyện và Thanh tra sở, tổ chức lại thành các tổ chức thuộc Thanh tra tỉnh.
Kết luận số 134-KL/TW cũng nêu rõ, sau khi sắp xếp, các cơ quan không còn tổ chức thanh tra thì thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra trong phạm vi quản lý nhà nước. Người đứng đầu có trách nhiệm giao đơn vị trực thuộc tham mưu thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở những định hướng tại Kết luận số 134-KL/TW, Thanh tra Chính phủ chủ trì xây dựng Luật Thanh tra (sửa đổi) nhằm thể chế hóa về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra.
Tại dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi), Thanh tra Chính phủ đề xuất lược bỏ hoàn toàn các quy định về Thanh tra Bộ, Thanh tra Tổng cục, Cục thuộc Bộ, cơ quan thanh tra ở cơ quan thuộc Chính phủ, Thanh tra huyện, Thanh tra sở, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành, tổ chức và hoạt động thanh tra nội bộ…
Dự thảo Luật lược bỏ và giao Chính phủ quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm vào các ngạch thanh tra viên; miễn nhiệm thanh tra viên; trang phục, thẻ thanh tra viên; xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra; hồ sơ thanh tra; xây dựng, phổ biến kế hoạch thanh tra; sửa đổi, bổ sung kế hoạch tiến hành thanh tra; xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo; thông báo về việc công bố quyết định thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của người thực hiện giám sát; tổ chức việc giám sát, báo cáo kết quả giám sát;…
Sửa đổi, hoàn thiện khái niệm “thanh tra” theo hướng không phân biệt thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành mà chỉ là thanh tra; phân định rõ hoạt động thanh tra với kiểm tra chuyên ngành về chủ thể, phạm vi, đối tượng, quy trình, trình tự, thủ tục. Đáng chú ý, Dự thảo Luật không quy định về thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Theo đó, khoản 1, Điều 2 của dự thảo Luật quy định: “Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị xử lý của cơ quan thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”.
Ngoài ra, dự thảo bổ sung nhiệm vụ cho các cơ quan thanh tra trong công tác phòng, chống lãng phí: Các cơ quan thanh tra thực hiện nhiệm vụ phòng, chống lãng phí theo quy định của pháp luật. Đồng thời, quy định bổ sung mục đích hoạt động của các cơ quan thanh tra “góp phần kiểm soát quyền lực”.
Bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn cho Tổng Thanh tra Chính phủ; Thanh tra Chính phủ; Căn cứ tạm dừng cuộc thanh tra; quy định về chuyển, cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra trong hoạt động thanh tra; Bổ sung quy định về vị trí, chức năng của Thanh tra Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Cơ yếu và Thanh tra theo điều ước quốc tế do tính đặc thù của các cơ quan này…
Tại dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi), Thanh tra Chính phủ đề xuất hoàn thiện quy định về các cơ quan thanh tra, cụ thể tại Điều 8 của dự thảo Luật quy định gồm: Thanh tra Chính phủ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Cơ quan thanh tra trong Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thanh tra Cơ yếu; Cơ quan thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Thanh tra Cục An toàn bức xạ và hạt nhân; Thanh tra Cục Hàng hải Việt Nam; Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam; Thanh tra Ủy ban Chứng khoán nhà nước).
Ngoài ra, Dự thảo Luật hoàn thiện một số quy định cho phù hợp với thực tiễn như: Căn cứ ban hành quyết định thanh tra, gửi quyết định thanh tra, công bố quyết định thanh tra, thẩm định dự thảo kết luận thanh tra, nhiệm vụ, quyền của người tiến hành thanh tra, quyền và nghĩa vụ đối tượng thanh tra…
Theo Thanh tra Chính phủ, việc lược bỏ 52 điều của Luật Thanh tra năm 2022, góp phần cắt giảm trên 40% các thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra, như: Cắt giảm các thủ tục do 12 Thanh tra Bộ, 5 Thanh tra Tổng cục, Cục thuộc Bộ, Thanh tra Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 696 Thanh tra huyện, 1.001 Thanh tra sở và 53 cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thực hiện.
Bên cạnh đó, giảm bớt một số thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra như, trong ban hành kế hoạch thanh tra, điều chỉnh kế hoạch thanh tra; xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra…
Về phân cấp, phân quyền, Dự thảo Luật nêu rõ, phân cấp cho Thanh tra Chính phủ và Thanh tra tỉnh chủ động trong việc thanh tra công tác quản lý, sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp sau khi báo cáo Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Hiện nay, Thanh tra Chính phủ và Thanh tra tỉnh chỉ thực hiện khi được Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp giao, làm mất đi tính chủ động của công tác thanh tra.
Phân cấp cho Chánh Thanh tra tỉnh ban hành kế hoạch thanh tra sau khi Chủ Uỷ ban nhân dân tỉnh đồng ý về chủ trương. Chính phủ quy định về việc quản lý, sử dụng kinh phí trích cho cơ quan thanh tra và chế độ đối với người làm việc trong cơ quan thanh tra; trang phục, chế độ cấp trang phục thanh tra cho Thanh tra viên.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành quy định về hoạt động kiểm tra trong ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của mình trong trường hợp chưa được Luật chuyên ngành và Chính phủ quy định.
2. Dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi) đã thể chế hóa những quan điểm, định hướng lớn của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo của Trung ương và Chính phủ tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Kế thừa và đổi mới trong quá trình sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra theo hướng tập trung, thống nhất, tinh gọn về một đầu mối theo 02 cấp ở Trung ương và địa phương; khắc phục những bất cập, hạn chế, chồng chéo, trùng lắp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra hiện nay. Cụ thể hoá chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về cơ chế kiểm soát quyền lực, mối quan hệ công tác của hệ thống thanh tra các cấp; giữa Thanh tra Chính phủ với các Bộ, ngành, địa phương, giữa Thanh tra tỉnh với các sở, ngành khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn hệ thống các cơ quan thanh tra.
Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện Dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi), góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, Dự thảo Luật cần có quy định nhằm phân định rõ giữa thẩm quyền thanh tra việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ (điểm e, Điều 10) với hoạt động kiểm tra chuyên ngành của cơ quan quản lý nhà nước.
Theo Kết luận số 134-KL/TW, sau khi sắp xếp, các cơ quan không còn tổ chức thanh tra thì thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra trong phạm vi quản lý nhà nước. Người đứng đầu có trách nhiệm giao đơn vị trực thuộc tham mưu thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động thanh tra cho thấy, hoạt động thanh tra việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ với hoạt động kiểm tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ có sự chồng chéo, trùng lắp về nội dung, đối tượng thanh tra, kiểm tra. Một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ vừa chịu sự thanh tra của Thanh tra Chính phủ, nhưng cũng thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phân định giữa 2 hoạt động này; giải quyết mối quan hệ giữa Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành trong tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra các nội dung thuộc thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các bộ, ngành, từ đó xác định cụ thể phạm vi trách nhiệm của mỗi cơ quan trong hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành.
Thứ hai, về thẩm quyền ban hành kết luận thanh tra.
Dự thảo Luật vẫn giữ quy định việc ban hành kết luận thanh tra cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra. Sau khi sắp xếp 12 Thanh tra bộ về Thanh tra Chính phủ, Thanh tra sở, Thanh tra huyện về Thanh tra tỉnh sẽ khiến khối lượng công việc thanh tra hàng năm của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh nhiều hơn. Theo Tờ trình dự thảo Luật, sau khi sắp xếp, Thanh tra Chính phủ sẽ tăng bình quân giám sát, thẩm định khoảng 125 cuộc; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc và xử lý sau thanh tra khoảng 1.000 kết luận thanh tra. Trong khi đó, nhiều cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ chủ trì có tính chất phức tạp, phạm vi rộng, liên quan đến nhiều bộ, ngành, địa phương. Vì vậy, nếu không có cơ chế phân quyền cho Cục trưởng Cục thanh tra thuộc Thanh tra Chính phủ ký ban hành kết luận thanh tra sẽ có nguy cơ dẫn đến việc chậm ban hành kết luận thanh tra theo thời hạn được Luật Thanh tra quy định.
Thứ ba, Dự thảo Luật bổ sung căn cứ tạm dừng cuộc thanh tra tại điểm b khoản 1 Điều 30: “Tình hình thực tế ảnh hưởng đến việc tiến hành thanh tra trực tiếp theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền” nhằm phù hợp với thực tiễn hiện nay, khi có nhiều trường hợp cần tập trung nhân lực, các nguồn lực khác để thực hiện các nhiệm vụ đột xuất, quan trọng về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng, Thủ trưởng cơ quan quản lý các cấp.
Tuy nhiên, căn cứ tạm dừng cuộc thanh tra chỉ nên là những lý do mang tính khách quan (thiên tại, dịch họa…), hoặc các dịp lễ, tết. Trường hợp cần tập trung nhân lực, các nguồn lực khác để thực hiện các nhiệm vụ đột xuất, quan trọng về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền thì các cơ quan thanh tra phải tự sắp xếp, bố trí nguồn lực để thực hiện. Trong trường hợp giữ nguyên căn cứ này thì Dự thảo Luật cần xác định rõ việc tạm dừng cuộc thanh tra tối đa là bao nhiêu ngày, vì nếu việc tạm dừng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.
Thứ tư, Dự thảo Luật bổ sung quy định về “đối tượng thanh tra” là cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự thanh tra được xác định trong quyết định thanh tra và “kế hoạch tiến hành một cuộc thanh tra”. Việc xác định đối tượng thanh tra trong kế hoạch tiến hành một cuộc thanh tra là nội dung mới theo Dự thảo Luật. Trong hoạt động thanh tra, kế hoạch tiến hành thanh tra đột xuất trước khi công bố với đối tượng thanh tra theo quy định của Luật Thanh tra thuộc danh mục bí mật nhà nước (theo Quyết định số 774/QĐ-TTg ngày 05/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục bí mật nhà nước thuộc lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng). Vì vậy, quy định này cần đồng bộ với quy định về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra và các quy định khác có liên quan.
Thứ năm, về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Theo quy định tại Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính, Thanh tra viên có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 1% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 500.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này…
Hiện tại, Luật xử lý vi phạm hành chính cũng đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung. Trường hợp Luật này quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho Thanh tra viên và các chủ thể khác trong hoạt động thanh tra thì cần bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính vào Dự thảo Luật Thanh tra.
ThS. Lê Văn Đức
Phó Trưởng phòng, Viện CL&KHTT