1. Bản chất hoạt động thanh tra chuyên ngành
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực đã tất yếu dẫn đến sự ra đời của các loại hình thanh tra. Việc thanh tra các đơn vị, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về từng ngành, lĩnh vực phải được tiến hành chuyên sâu, do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo ngành, lĩnh vực thực hiện dựa trên cơ sở các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành. Đây chính là những lý do của việc xuất hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành trong quản lý hành chính nhà nước.
Qua nghiên cứu, chúng ta có thể thấy bản chất hoạt động thanh tra chuyên ngành được thể hiện ở các yếu tố, đặc điểm sau:
– Mục đích hoạt động thanh tra chuyên ngành chủ yếu hướng tới việc kiểm soát hoạt động chấp hành chính sách, pháp luật của mọi đối tượng trong xã hội nhằm phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mục đích của hoạt động thanh tra chuyên ngành tập trung vào phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
– Hoạt động thanh tra chuyên ngành mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ của ngành, lĩnh vực chuyên môn. Tính chuyên sâu này được thể hiện ở tính chuyên môn – kỹ thuật. Người tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành khi thực hiện hoạt động thanh tra phải có kiến thức chuyên môn về ngành, lĩnh vực đó, vận dụng kiến thức để đưa ra những kết luận chính xác. Kiến nghị của thanh tra chuyên ngành bao giờ cũng thể hiện tính chất chuyên môn – kỹ thuật, từ việc đánh giá đặc điểm, tình hình, những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân cũng như quyết định xử lý và hậu quả pháp lý luôn gắn với tính chất chuyên môn – kỹ thuật. Khi xem xét, các cơ quan tiến hành có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm.
– Về chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành: Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành là thanh tra bộ, thanh tra sở và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở).
– Hình thức thanh tra chuyên ngành: Hoạt động thanh tra chuyên ngành có thể được thực hiện thông qua đoàn thanh tra chuyên ngành, thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Hoạt động thanh tra chuyên ngành không chỉ theo chương trình, kế hoạch hay thanh tra đột xuất mà còn được thực hiện thường xuyên.
– Đối tượng của hoạt động thanh tra chuyên ngành bao gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực quản lý của các ngành. Theo đó, đối tượng của thanh tra chuyên ngành rất rộng bao gồm cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân. Như vậy, đối tượng của hoạt động thanh tra chuyên ngành là bất kỳ cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nào thực hiện các công việc liên quan và trong phạm vi của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực đó. Đối tượng của hoạt động thanh tra chuyên ngành có thể không phụ thuộc về mặt tổ chức đối với chủ thể thực hiện thanh tra chuyên ngành, tuy nhiên vì họ thực hiện những hoạt động liên quan đến ngành, lĩnh vực mà các cơ quan này quản lý nên theo quy định pháp luật họ vẫn là đối tượng thanh tra của các cơ quan thanh tra chuyên ngành.
Qua việc hình thành hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng như yếu tố, đặc trưng trên mà khái niệm về hoạt động thanh tra chuyên ngành được hiểu là hoạt động xem xét, đánh giá của các cơ quan quản lý hành chính theo ngành, lĩnh vực đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn, kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
2. Quy định hiện hành về hoạt động thanh tra chuyên ngành
– Nguyên tắc tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành: là việc thanh tra tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; hoạt động thanh tra không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Theo quy định hiện hành, hoạt động thanh tra chuyên ngành do Đoàn thanh tra chuyên ngành, Thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thực hiện. Hoạt động thanh tra chuyên ngành phải được tiến hành thường xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.
– Thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành và phân công Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập: để đảm bảo tính nhanh nhạy, kịp thời, linh hoạt và đa dạng, đồng thời hạn chế sự tùy tiện trong hoạt động thanh tra chuyên ngành, Điều 51 Luật Thanh tra năm 2010 và Điều 14 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP đã quy định cụ thể về thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành và phân công Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập, như sau:
+ Chánh thanh tra bộ, Chánh thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ, Chi cục trưởng thuộc Sở) ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra. Đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Giám đốc Sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra.
+ Chánh thanh tra bộ, Chánh thanh tra sở ra quyết định thanh tra đột xuất, thành lập Đoàn thanh tra và gửi quyết định thanh tra đột xuất để báo cáo Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Giám độc Sở. Trường hợp người ra quyết định thanh tra là Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ, Chi cục trưởng thuộc Sở thì quyết định thanh tra đột xuất được gửi để báo cáo Chánh thanh tra bộ, Chánh thanh tra sở. Đối với vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra đột xuất và thành lập Đoàn thanh tra,
+ Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập theo sự phân công của Chánh Thanh tra bộ, Chánh thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
– Về thời hạn tiến hành cuộc thanh tra chuyên ngành: cụ thể hóa quy định liên quan đến thời hạn thanh tra của Đoàn thanh tra chuyên ngành, Điều 16 Nghị định 07/2012/NĐ-CP quy định: cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra bộ, Tổng cục, Cục thuộc Bộ tiến hành không quá 45 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 ngày; cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra sở, Chi cục thuộc Sở tiến hành không quá 30 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày. Thời hạn của cuộc thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra. Việc kéo dài thời hạn thanh tra do người ra quyết định thanh tra chuyên ngành quyết định.
– Trình tự, thủ tục thanh tra chuyên ngành: đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành có thể được thực hiện thông qua đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên tiến hành độc lập hoặc người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thực hiện. Với đặc thù của hoạt động thanh tra chuyên ngành đòi hỏi phải tiến hành nhanh chóng và đặc biệt là trong nhiều tình huống là xử lý ngay các hành vi vi phạm pháp luật chuyên ngành, pháp luật có quy định trình tự, thủ tục thanh tra chuyên ngành của các ngành, lĩnh vực có thể có những khác biệt so với hoạt động thanh tra hành chính. Nghị định số 07/2012/NĐ-CP cũng quy định đặc thù liên quan đến hoạt động thanh tra chuyên ngành như việc xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra của Đoàn thanh tra (Điều 18); phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra (Điều 19); xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo (Điều 20); thông báo việc công bố quyết định thanh tra chuyên ngành (Điều 21); công bố quyết định thanh tra chuyên ngành (Điều 22); thu thập thông tin, tài liệu, đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật (Điều 23); báo cáo tiến độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (Điều 24); báo cáo kết quả thanh tra chuyên ngành (Điều 25); xây dựng kết luận thanh tra (Điều 26); kết luận thanh tra chuyên ngành (Điều 27) và công khai kết luận thanh tra chuyên ngành (Điều 28).
– Nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành thanh tra chuyên ngành: Luật Thanh tra và Nghị định số 07/2012/NĐ-CP đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành thanh tra chuyên ngành, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành được quy định tại Điều 53 Luật Thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên Đoàn thanh tra, thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành khi tiến hành độc lập được quy định tại Điều 54 Luật Thanh tra và Điều 31 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP; nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra chuyên ngành được quy định tại Điều 55 Luật Thanh tra. Đặc điểm liên quan đến thẩm quyền của các chủ thể khi tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành đó là thẩm quyền của các chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành khác với các chủ thể tiến hành thanh tra hành chính đặc biệt là quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra viên chuyên ngành và bên cạnh các quy định của Luật Thanh tra thì thẩm quyền của thanh tra viên chuyên ngành và người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành còn được quy định ở trong luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như những văn bản pháp luật chuyên ngành.
– Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành: để đảm bảo được yêu cầu xử lý nhanh chóng, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, Luật Thanh tra năm 2010 đã giao chức năng thanh tra chuyên ngành ở ngành, lĩnh vực cho các tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở thực hiện. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì không phải bất kỳ tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở nào cũng được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành mà việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành phải xuất phát từ yêu cầu công tác quản lý nhà nước và các cơ quan nào được giao thực hiện chức năng thanh tra này sẽ do Chính phủ quy định theo đề nghị của Tổng Thanh tra Chính phủ sau khi đã thống nhất với Bộ trưởng.
Ngoài ra, để tránh việc thành lập cơ quan thanh tra ở các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, Luật Thanh tra cũng khẳng định rõ các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập mà hoạt động thanh tra ở các cơ quan này do Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thực hiện, tức là Thủ trưởng có trách nhiệm trực tiếp xây dựng kế hoạch thanh tra, quyết định thanh tra, thành lập Đoàn thanh tra, cử cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kết luận thanh tra. Hoạt động thanh tra của các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành do chính các công chức của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đó thực hiện. Quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, các công chức được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra, được quyền xử phạt vi phạm hành chính và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định, hành vi của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra.
3. Một số khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành
a) Quy định về cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành
– Căn cứ Luật Thanh tra và Nghị định số 07/2012/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/2012, việc sắp xếp lại tổ chức, cán bộ, thanh tra viên ở các tổng cục, cục, chi cục được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, trừ thanh tra bộ, thanh tra sở, thì toàn bộ hệ thống thanh tra chuyên ngành thuộc các tổng cục, cục thuộc bộ, cục thuộc tổng cục, chi cục thuộc sở, chi cục thuộc cục, của các cơ quan quản lý nhà nước đã được chuyển đổi hình thức tổ chức và hoạt động.
Luật Thanh tra chưa có khái niệm và tiêu chí thống nhất về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành để làm căn cứ cho Tổng Thanh tra Chính phủ và các Bộ trưởng thống nhất đề xuất Chính phủ quy định cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Thực tiễn cho thấy, do yêu cầu cấp thiết của thực tiễn đòi hỏi hoặc là đáp ứng các điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên phải công nhận thêm một số cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra tra chuyên ngành ngoài các cơ quan được quy định tại Nghị định số 07/2012/NĐ-CP. Nhiều nghị định quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ, ngành được ban hành sau đó đã tiếp tục bổ sung cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành như: bổ sung Cảng vụ hàng không thuộc Cục Hàng không, Cảng vụ Hàng hải thuộc Cục Hàng hải, Cảng vụ đường thủy nội địa thuộc Cục đường thủy nội địa, Chi cục đường thủy nội địa thuộc Cục đường thủy nội địa, Cơ quan quản lý đường bộ ở khu vực thuộc Tổng cục đường bộ Việt Nam; bổ sung Trung tâm tần số tuyến điện khu vực thuộc Cục tần số; bổ sung Cục Bổ trợ Tư pháp, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực.
Ngoài ra, một số lĩnh vực quản lý nhà nước ở cấp cơ sở như các trạm thú y, trạm kiểm ngư thuộc chi cục kiểm ngư, trạm bảo vệ thực vật thuộc chi cục bảo vệ thực vật, hạt thủy lợi thuộc chi cục thủy lợi…đây là những cơ quan quản lý nhà nước thuộc chi cục, thuộc sở được thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại địa phương. Theo quy định của pháp luật thanh tra, các cơ quan này không phải là cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành nên cũng dẫn đến khó khăn trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo thì phòng giáo dục và đào tạo quản lý hàng trăm đơn vị trường học nhưng lại không có chức năng thanh tra cũng dẫn đến bất cập trong thực tiễn. Thanh tra sở không thể đáp ứng được yêu cầu thanh tra đối với công tác giáo dục tại cấp cơ sở.
Hiện nay, các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành cấp sở, chi cục thuộc sở chưa đáp ứng được đòi hỏi nói trên do thiếu nhiều biên chế, trong khi đó, các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại cấp huyện lại không được pháp luật giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Do vậy, dẫn đến pháp luật hiện hành chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn về tăng cường công tác thanh tra tại cơ sở đối với nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như giáo dục, y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm, nông nghiệp.
– Bộ phận tham mưu của cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành: như trên đề cập thì các tổ chức thanh tra độc lập được thành lập ở Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Cục Hàng không, Cục Hàng hải, Cục An toàn và bức xạ hạt nhân nhưng các tổ chức thanh tra độc lập này chưa được xác định là thuộc hệ thống cơ quan thanh tra hành chính hay thuộc hệ thống cơ quan thanh tra chuyên ngành.
Mô hình bộ phận tham mưu của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành chưa được pháp luật quy định nên tên gọi của bộ phận tham mưu này là khác nhau, do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Ví dụ, có nơi đặt tên bộ phận tham mưu này là Phòng thanh tra – Pháp chế, có nơi đặt tên là Tổ tham mưu thuộc chi cục thuộc sở….một số Bộ, ngành còn thừa nhận hình thức “đội” là bộ phận tham mưu về thanh tra chuyên ngành ở cấp cơ sở (Nghị định số 82/2012/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành tài chính đã xác định bộ phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành của chi cục thuộc cục được tổ chức thành đội. Nghị định số 57/2013/NĐ-CP ngày 31/5/2013 về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành giao thông vận tải đã xác định bộ phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành thuộc Cục đường sắt Việt Nam, Chi cục đường thủy nội địa và Cơ quan quản lý đường bộ được tổ chức thành đội). Tuy tổ chức “đội” không thuộc hệ thống hành chính nhà nước nhưng do đòi hỏi của thực tiễn, “đội” đã được quy định tại một số văn bản pháp luật chuyên ngành. Đặc biệt, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của đội trưởng đã được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
– Thẩm quyền thanh tra: theo Luật Thanh tra 2010, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành chỉ có thẩm quyền thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy với nhiều cơ quan có chức năng quản lý nhà nước sâu, rộng, có nhiều đơn vị trực thuộc như Tổng cục Lâm nghiệp, Cục Thủy lợi, Cục Thủy sản, Tổng cục Thuế … thì việc cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không có thẩm quyền thanh tra hành chính đã gây ra khó khăn nhất định cho công tác quản lý nhà nước.
– Công tác cán bộ, biên chế: theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP, người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành phải là công chức thuộc biên chế của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, nhân sự ở chi cục thuộc sở, chi cục thuộc cục đa số là viên chức nên không đủ để bố trí công chức thanh tra chuyên ngành đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về công tác thanh tra tại cơ sở. Ngoài ra, pháp luật về thanh tra chuyên ngành chưa quy định cụ thể về việc cấp thẻ cho công chức thanh tra chuyên ngành nên mỗi Bộ, ngành cấp thẻ công chức thanh tra chuyên ngành với thẩm quyền khác nhau, không thống nhất.
b) Về trình tự, thủ tục hoạt động thanh tra chuyên ngành
– Quy định chưa cụ thể về hình thức thanh tra thường xuyên: Điều 37 Luật Thanh tra quy định các hình thức thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên, thanh tra độc lập và thanh tra đột xuất. Tuy nhiên, Nghị định 07/2012/NĐ-CP chỉ quy định hình thức thanh tra chuyên ngành theo kế hoạch và thanh tra chuyên ngành đột xuất. Việc thực hiện thanh tra chuyên ngành thường xuyên hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn. Việc quy định chưa thống nhất, thiếu rõ ràng về hình thức thanh tra gây nên những khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
– Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong một số ngành như an toàn, vệ sinh thực phẩm, môi trường, y tế… thường đòi hỏi tính thường xuyên, kịp thời, phát hiện ngay hành vi vi phạm. Qua nghiên cứu cho thấy, quy định về trình tự, thủ tục hoạt động thanh tra chuyên ngành hiện chỉ phù hợp với hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra kinh tế – xã hội. Quy định về trình tự, thủ tục hoạt động thanh tra chuyên ngành hiện nay chưa phù hợp với thực tế đa dạng, chuyên sâu hoạt động thanh tra chuyên ngành. Bên cạnh đó, trong một số hoạt động thanh tra chuyên ngành theo kế hoạch, quy định về việc phải gửi quyết định thanh tra đến đối tượng thanh tra trước khi tiến hành thanh tra đã đánh động khiến đối tượng thanh tra xóa dấu vết vi phạm, gây khó khăn cho hoạt động thanh tra. Ngoài ra, quy định về việc công bố quyết định thanh tra trước khi thanh tra đột xuất cũng gây nên những trở ngại tương tự, nhất là trong các lĩnh vực an toàn thực phẩm, y tế, dược phẩm, môi trường.
4. Kiến nghị
Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc nêu trên, thời gian tới cần thực hiện một số công việc sau:
Thứ nhất, trước mắt, Chính phủ cần sửa đổi Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2014 theo hướng tập trung, thống nhất và hoàn thiện các quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành. Trong đó, Chính phủ cũng cần hướng dẫn cụ thể về bộ phận tham mưu, cán bộ, biên chế của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; về thanh tra thường xuyên; trình tự, thủ tục của hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Thứ hai, trong thời gian tới, cần phải tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Luật Thanh tra, trong đó bao gồm cả tập trung vào chế định pháp luật về thanh tra chuyên ngành. Từ đó, sửa đổi Luật Thanh tra theo hướng xác định rõ những cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ở cấp trung ương, cấp địa phương, nhất là ở chi cục thuộc sở; xác định rõ tiêu chí để giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho các cơ quan cần thiết; đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành phải phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của mỗi ngành./.