MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA
1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra năm 2010.
Sau hơn 4 năm thực hiện, Luật Thanh tra năm 2010 đặt ra yêu cầu cần phải được nghiên cứu, tổng kết, đánh giá làm căn cứ đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, phục vụ cho quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra, trong đó có việc tổ chức thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra. Từ đó, xác định đúng, đầy đủ việc trao thêm cho cơ quan thanh tra, các chủ thể tiến hành thanh tra những quyền hạn gì? hoặc bỏ đi những quyền hạn nào? Trên cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về quyền, trong hoạt động thanh tra, cho thấy việc sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra quy định về các quyền trong hoạt động thanh tra cần tập trung vào một số công việc và nội dung chính sau:
a) Tách các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thế tiến hành thanh tra thành hai nội dung rõ ràng hơn là các quy định về nhiệm vụ và các quy định về quyền hạn trong quá trình tổ chức thực hiện một cuộc thanh tra để tránh việc nhận thức và thực hiện không đúng các quyền trong hoạt động thanh tra.
Đồng thời, cũng cần xác định khái niệm quyền trong hoạt động thanh tra là các quyền mà tổ chức thanh tra, các chủ thể tiến hành thanh tra hướng ra bên ngoài, áp dụng với các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của việc thực hiện quyền, hình thành nên các trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan từ hoạt động thanh tra. Đối với các quyền mang tính chỉ đạo, điều hành trong hoạt động thanh tra như quyền của Người ra quyết định thanh tra với Trưởng Đoàn thanh tra, quyền của Trưởng Đoàn thanh tra với thành viên Đoàn thanh tra nên xác định là các quyền trong nội bộ thanh tra, cần được quy định thành quy trình, thủ tục khi tiến hành thanh tra.
b) Trên cơ sở nhận thức lại về các loại quyền trong hoạt động thanh tra đã nêu tại mục 3.2.1 nêu trên, sửa đổi các quy định về quyền kiến nghị thành quyền yêu cầu đối với việc:
– Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra nhà nước hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra;
– Tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức cố ý cản trở việc thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra;
– Đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Với việc chỉnh sửa lại tính chất của các quyền này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra.
c) Nghiên cứu, làm rõ các luận cứ khoa học của việc trao cho thanh tra quyền khởi tố, điều tra ban đầu đối với vụ việc có hành vi vi phạm đến mức độ xử lý hình sự[1].
Như phần thực trạng việc thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra đã đề cập, mặc dù hàng năm các cơ quan thanh tra phát hiện và kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước rất nhiều tiền, đất đai, tài sản nhưng việc kiến nghị để xử lý hình sự còn chiếm tỷ lệ nhỏ so với các vi phạm của đối tượng thanh tra.Vậy nếu chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra mà cơ quan điều tra không khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì xác định trách nhiệm của các cơ quan này như thế nào? Trong trường hợp đối tượng thanh tra thực hiện hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm mà cơ quan thanh tra không đề nghị khởi tố thì trách nhiệm của người tiến hành thanh tra đến đâu?
Để tăng cường tính chủ động của cơ quan thanh tra, đồng thời kịp thời xử lý đối với những hành vi vi phạm, cần sửa đổi Luật Thanh tra, Luật Phòng chống tham nhũng theo hướng: khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, cơ quan thanh tra phải chuyển sang thực hiện quyền điều tra sơ bộ vụ án để làm rõ, củng cố hồ sơ, tài liệu, kết luận ban đầu và có quyền quyết định khởi tố vụ án, tương tự như cơ quan Kiểm lâm, Hải quan, Biên phòng…Sau đó, cơ quan thanh tra có trách nhiệm chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó. Khi tiếp nhận hồ sơ từ cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và củng cố thêm chứng cứ đề nghị truy tố trước pháp luật. Đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu của tội phạm mà không quyết định khởi tố. Quy định như vậy sẽ nâng cao hiệu quả công tác thanh tra và công tác phòng, chống tham nhũng.
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy theo quy định của Pháp lệnh về Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì hiện nay hệ thống các cơ quan điều tra được xác định gồm có:
“1. Trong Công an nhân dân có các Cơ quan điều tra sau đây:
a) Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện);
b) Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh).
2. Trong Quân đội nhân dân có các Cơ quan điều tra sau đây:
a) Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương; Cơ quan điều tra hình sự khu vực;
b) Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương.
3. ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có các Cơ quan điều tra sau đây:
a) Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
b) Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.
4. Cơ quan điều tra có Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng và Điều tra viên”[2].
Ngoài các cơ quan nói trên, Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự còn giao cho một số cơ quan nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm có Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và một số cơ quan khác trong lực lượng Công an và Quân đội như Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường bộ – đường sắt, Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường thuỷ, Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cục trưởng Cục Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ – đường sắt, Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông đường thuỷ, Trưởng Phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, Trưởng Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng Phòng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Giám thị trại tạm giam, Giám thị trại giam ra… có thẩm quyềm khởi tố vụ án.
Như vậy, ngoài các cơ quan điều tra trong lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân để phục vụ cho việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm đến mức độ là tội phạm, được pháp luật trao cho quyền khởi tố điều tra hình sự thì một số cơ quan khác như Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, do tính chất đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp như Hải quan tại Cửa khẩu, Bộ đội biên phòng tại biên giới, Cảnh sát biển thực hiện nhiệm vụ thực thi pháp luật trên biển, Kiểm lâm thực hiện nhiệm vụ để bảo vệ rừng thì pháp luật cũng trao cho thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra như quyền khởi tố ban đầu đối với vụ án hình sự. Ngoài ra một số cơ quan khác trong Công an, Quân đội do yêu cầu đặc thù tính chất công việc mà pháp luật cũng trao cho thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu như Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường bộ – đường sắt, Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường thuỷ, Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy…
Đối với hoạt động thanh tra, với nhiệm vụ là phải xem xét, đánh giá, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan thông qua bản kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy bản chất của hoạt động thanh tra cũng là việc đấu tranh trực tiếp nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật, trong nội dung, phương thức hoạt động thanh tra đã có những yếu tố của các biện pháp điều tra.
Thực tiễn việc chưa giao cho cơ quan thanh tra thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu với quyền khởi tố vụ án một phần nào cũng có sự lãng phí về công sức, trí tuệ của các cán bộ thanh tra, bởi lẽ hồ sơ do cơ quan thanh tra chuyển sang cơ quan điều tra chỉ coi như một nguồn thông tin tội phạm, sau đó các cơ quan điều tra lại tiến hành thu thập chứng cứ bắt buộc theo trình tự, thủ tục mà Bộ Luật Tố tụng hình sự quy định, trong khi đó cơ quan thanh tra, các chủ thể tiến hành thanh tra đã mất nhiều thời gian, công sức để xác minh, làm rõ những căn cứ có dấu hiệu phạm tội. Mặt khác, việc chuyển hồ sơ vụ việc từ cơ quan thanh tra sang cơ quan điều tra cũng mất một khoảng thời gian nhất đinh, điều này cũng ảnh hưởng tới yêu cầu kịp thời đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra. Tuy nhiên, việc trao cho thanh tra một số quyền điều tra là vấn đề lớn, tác động trực tiếp tới hiệu quả công tác thanh tra và phải được sự đồng thuận không chỉ cán bộ trong ngành thanh tra mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ngoài ngành. Vì vậy, cần phải luận giải rõ hơn về vấn đề này.
Nếu trao cho cơ quan thanh tra quyền khởi tố ban đầu đối với vụ án hình sự, cần hết sức cân nhắc việc trao cho những người nào thuộc thẩm quyền cơ quan thanh tra nào có quyền khởi tố ban đầu, để đảm bảo việc kiểm soát chặt chẽ, tránh việc khởi tố tràn lan, thiếu căn cứ làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích chính đáng của công dân, cơ quan, tổ chức. Để có thể thực hiện được quyền khởi tố ban đầu đối với vụ án hình sự được phát hiện qua thanh tra, ngành thanh tra cần phải xây dựng các quy trình, quy phạm hoạt động của ngành, trong đó đặc biệt phải làm rõ các căn cứ khởi tố vụ án cũng như nâng cao năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thanh tra.
2. Ban hành Thông tư thuộc thẩm quyền của Tổng Thanh tra Chính phủ hướng dẫn việc thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra.
Trên cơ sở Luật Thanh tra, Nghị định hướng dẫn thi hành, Tổng Thanh tra Chính phủ cần ban hành Thông tư hướng dẫn thống nhất trong toàn ngành thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra. Việc hướng dẫn cần phải làm rõ được các vấn đề sau đây:
– Căn cứ thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra: Đó là phải chỉ ra được các dấu hiệu cụ thể, trong những tình huống, trường hợp cụ thể được áp dụng các quyền trong hoạt động thanh tra.
– Trình tự, thủ tục thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra. Luật Thanh tra năm 2010, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra đã xác định được các quyền, cụ thể hóa một bước việc thực hiện các quyền. Tuy nhiên, để thuận lợi cho những chủ thể có thẩm quyền tiến hành áp dụng quyền, cần phải hướng dẫn cụ thể về các bước, thủ tục thực hiện quyền từ việc ban hành các văn bản cụ thể hóa việc thực hiện quyền, việc lập biên bản ghi nhận quá trình thực hiện quyền…
– Xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình thực hiện quyền, mối quan hệ phối hợp trong thực hiện quyền, xử lý những vấn đề khi có ý kiến khác nhau trong quá trình thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra…
– Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra. Thông tư cần phải đưa ra các chế tài đảm bảo thực hiện quyền; trách nhiệm của cấp có thẩm quyền trong bảo đảm thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra.
Đối với một số quyền trong hoạt động thanh tra, cần được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư như sau:
a) Về quyền ban hành quyết định thanh tra.
Để tránh sự chồng chéo trong việc ban hành quyết định thanh tra giữa các cơ quan thanh tra và sự chồng chéo giữa thanh tra với kiểm tra, kiểm toán, cần ban hành văn bản hướng dẫn về việc xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra, theo đó xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra, sự phối hợp thông báo giữa các cơ quan trong việc ban hành các quyết định thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Bên cạnh đó, cần có các quy định hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền ban hành quyết định thanh tra đối với doanh nghiệp của Nhà nước, phân định rõ phạm vi thanh tra của Thanh tra bộ với Thanh tra tỉnh, Thanh tra tỉnh với Thanh tra sở khi tiến hành thanh tra doanh nghiệp theo phạm vi quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp. Có như vậy sẽ hạn chế sự lúng túng của các cơ quan thanh tra trong việc thanh tra các doanh nghiệp của Nhà nước, nhất là doanh nghiệp của Trung ương đóng tại địa phương, kịp thời xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp trên các lĩnh vực.
b) Về quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu.
Theo quy định của Luật Thanh tra hiện hành thì quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu được xác định cho cả Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên của Đoàn thanh tra.
Qua nghiên cứu nhận thấy, đây là một trong các quyền rất quan trọng để phục vụ cho việc nghiên cứu, xác minh, kết luận của Đoàn thanh tra. Qua việc thu thập thông tin, tài liệu để đánh giá hiệu quả quản lý và tìm ra các sai phạm, thiếu sót, sơ hở trong hoạt động quản lý. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này trên thực tế vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, có không ít trường hợp đối tượng thanh tra cố tình tìm lý do để không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, cung cấp không kịp thời làm ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ, thời gian thanh tra. Mặc dù Luật Thanh tra và Nghị định hướng dẫn thi hành đã có những chế tài để xử lý vấn đề này, song các quy định vẫn còn quá chung chung, khó áp dụng. Đã có những trường hợp đối tượng thanh tra hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm, không chịu hợp tác nhưng việc xử lý còn lúng túng và thiếu thống nhất. Vì thế trong thời gian tới kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hóa hơn chế tài xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến nội dung này.
c) Về quyền trưng cầu giám định liên quan đến nội dung thanh tra.
Luật Thanh tra quy định người ra quyết định thanh tra có quyền trưng cầu giám định về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; kinh phí trưng cầu giám định do cơ quan tiến hành thanh tra chi trả, trường hợp đối tượng thanh tra có sai phạm thì kinh phí giám định sẽ do đối tượng thanh tra chi trả, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, để thực hiện quyền này thì khó khăn gặp phải là vấn đề kinh phí bỏ ra ban đầu lấy từ đâu để giám định? Trên thực tế chi phí cho giám định thường rất đắt; cá biệt có những vụ việc đòi hỏi kinh phí rất lớn. Việc chi trả cho giám định theo quy định, trước hết phải lấy kinh phí từ cơ quan yêu cầu để chi trả. Đây là vấn đề khó cho cơ quan thanh tra hiện nay. Hơn nữa nếu trên cơ sở kết quả giám định mà sau này Kết luận thanh tra xác định đối tượng thanh tra không làm sai thì cơ quan thanh tra sẽ phải chi trả toàn bộ các chi phí giám định đó, sau đó mới xem xét trách nhiệm của người yêu cầu giám định để quy trách nhiệm bồi thường vật chất của người đó cho cơ quan. Chính vì sự phức tạp và tế nhị này mà đôi khi thực hiện quyền giám định, cán bộ thanh tra thường e dè và ngay cả cơ quan thanh tra cũng phải cân nhắc thận trọng. Vì thế đề nghị cần thiết phải có giải pháp để giải quyết vấn đề này, tạo điều kiện để Đoàn thanh tra hoàn thành tốt nhiệm vụ. Theo chúng tôi, quá trình xây dựng Quỹ bồi thường nhà nước có thể bao gồm trong đó cả những chi phí rủi ro này.
d) Về quyền yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng trái pháp luật.
Điểm d, khoản 1, Điều 48 của Luật Thanh tra quy định người ra quyết định thanh tra có quyền yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý. Để cụ thể quyền này, Điều 40, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định: Trong quá trình thanh tra, nếu phát hiện việc sử dụng trái pháp luật các khoản tiền, đồ vật, giấy phép mà xét thấy cần phải ngăn chặn ngay hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý thì Trưởng đoàn thanh tra đề nghị người ra quyết định thanh tra ra quyết định tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép; quyết định tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép phải bằng văn bản, trong đó ghi rõ tiền, đồ vật, giấy phép bị tạm giữ, thời gian tạm giữ, trách nhiệm của người ra quyết định tạm giữ, nghĩa vụ của đối tượng có tiền, đồ vật, giấy phép tạm giữ. Việc tạm giữ phải được lập thành biên bản. Đối với đồ vật, giấy phép xét thấy cần giao cho cơ quan chức năng giữ thì yêu cầu cơ quan đó thực hiện. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ: Khi xét thấy cần phải ngăn chặn ngay là khi nào? Những đồ vật, tài sản loại nào thì yêu cầu cơ quan chức năng nào tạm giữ? Thủ tục yêu cầu tạm giữ như thế nào? Quá trình tạm giữ mà đồ vật, tài sản mà bị hư hỏng, mất mát thì xử lý thế nào? v.v…Đây là những vấn đề cũng cần phải tiếp tục nghiên cứu, có hướng dẫn cụ thể mới có thể thực hiện được.
Mặt khác, để ngăn chặn kịp thời, tránh việc tẩu tán tiền, tài sản, đồng thời tăng cường trách nhiệm của Đoàn thanh tra, nên sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng tăng thêm thẩm quyền cho Trưởng đoàn thanh tra: Trưởng đoàn thanh tra có quyền quyết định tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra; nhưng ngay sau đó phải báo cáo với Người ra quyết định thanh tra biết và chịu trách nhiệm trước Người ra quyết định thanh tra.
e) Về quyền tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
Điểm đ, khoản 1, Điều 48 quy định quyền tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trên thực tế, không phải lúc nào quyền này cũng được thực hiện một cách khách quan. Để tránh lạm dụng quyền này với mục đích cá nhân, cần quy định rõ mức độ gây thiệt hại nghiêm trọng đến đâu mới được thực hiện quyền này, thời gian tạm đình chỉ, hậu quả của việc tạm đình chỉ và đình chỉ (nếu sai), chế độ chính sách trong thời gian bị tạm đình chỉ việc làm.
f) Về quyền kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra nhà nước hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra và quyền kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức cố ý cản trở việc thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra
Đây là những quyền mang tính chất kiến nghị và thực tế cho thấy quyền này cũng ít được sử dụng. Hiện nay theo quy định của pháp luật về tổ chức cán bộ, việc tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức, những người có liên quan cố ý cản trở việc thanh tra, không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra là thuộc quyền hạn và trách nhiệm của người quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó. Việc kiến nghị xử lý được người vi phạm trên thực tế không hề dễ dàng gì, tốn kém rất nhiều thời gian và phải qua các bước trình tự, thủ tục khá phức tạp, trong khi đó thời gian thanh tra lại có hạn; có trường hợp đáp ứng được yêu cầu kiến nghị thì cơ hội đã bị trôi qua; có trường hợp kiến nghị nhưng không được đáp ứng mà cũng không có lý do chính đáng. Những bất cập trên làm hạn chế quyền kiến nghị của Đoàn thanh tra.
Chúng tôi cho rằng, để tạo điều kiện cho hoạt động thanh tra được nhanh chóng, thuận lợi, cần giao quyền mạnh mẽ hơn cho người ra quyết định thanh tra đối với nội dung này. Theo đó, người ra quyết định thanh tra trong những trường hợp cần thiết thì có quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra nhà nước hoặc đang là đối tượng thanh tra; tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức cố ý cản trở việc thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra để đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả của công tác thanh tra. Sau khi ra quyết định tạm đình chỉ, người ra quyết định thanh tra phải báo cáo ngay với người có thẩm quyền quản lý trực tiếp cán bộ, công chức, viên chức đó và chịu mọi trách nhiệm về hành vi, việc làm của mình trước pháp luật và trước cấp trên.
g) Về quyền kết luận thanh tra.
– Sau khi đã có Báo cáo kết quả thanh tra chính thức, theo quy định của pháp luật thì trách nhiệm ban hành Kết luận thanh tra thuộc về người ra Quyết định thanh tra. Nhưng thực tế hiện nay, Trưởng đoàn thanh tra lại tiếp tục được giao trách nhiệm soạn thảo dự thảo Kết luận thanh tra để trình Người ra quyết định thanh tra duyệt nội dung và ký. Điều này có ưu điểm là nội dung của Kết luận thanh tra dựa trên Báo cáo kết quả thanh tra nên không có mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề này là nhiều khi Người ra quyết định thanh tra không kiểm soát hết được tất cả các nội dung kết luận thanh tra mà tiếp tục phụ thuộc vào Trưởng đoàn thanh tra. Có trường hợp Trưởng đoàn thanh tra lợi dụng việc được giao này cố ý bỏ qua những tình tiết, nội dung quan trọng trong Kết luận thanh tra, để lại hậu quả pháp lý rất khó quy trách nhiệm. Mặt khác, Người ra quyết định thanh tra chủ yếu là Thủ trưởng cơ quan thanh tra, còn Thủ trưởng cơ quan quản lý chỉ ra quyết định thanh tra trong một số trường hợp cần thiết. Vì vậy, trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan thanh tra rất nặng nề, bởi vì cùng một lúc phải đồng thời gánh hai trọng trách lớn: quản lý nhà nước về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực hoặc địa phương của mình; quyết định và điều hành mọi cuộc thanh tra trên thực tế.
Như vậy, Thủ trưởng cơ quan thanh tra vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, vừa điều hành tác nghiệp, vừa ra quyết định thanh tra và vừa ký Kết luận thanh tra là chưa phù hợp. Do đó, cần mạnh dạn giao thẩm quyền ký Kết luận thanh tra cho Trưởng đoàn thanh tra thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Người ra quyết định thanh tra; đồng thời quy định Người ra kết luận thanh tra ký phê duyệt Kết luận thanh tra. Trong hoạt động tố tụng hình sự, Lãnh đạo Bộ Công an cũng không ký Kết luận điều tra mà do Thủ trưởng cơ quan điều tra, thường là Cục trưởng ký. Ở Thanh tra Chính phủ, Tổng Thanh tra Chính phủ chỉ thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị, quản lý hành chính, điều hành, phê duyệt kế hoạch và xem xét xử lý các kiến nghị của Cục, Vụ, của Trưởng đoàn thanh tra. Khi đó sẽ nâng cao trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra trước pháp luật trong việc ban hành Kết luận thanh tra./.
TS. Nguyễn Huy Hoàng
Phó Hiệu trưởng Trường CBTT
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bir hesabınız yoksa, gerekli bilgileri doldurarak Mostbet web sitesine kaydolabilirsiniz.
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn https://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)