Trên thực tiễn, hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước về kiểm soát trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song vẫn tồn tại những khó khăn, vướng mắc làm giảm hiệu quả công tác phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực. Trên cơ sở nghiên cứu, bài viết đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm soát trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực.
1. Thực tiễn kiểm soát trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực
Việc kiểm soát quyền lực giai đoạn trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực. Cụ thể:
Thứ nhất, trong việc tham mưu, ban hành các văn bản chính sách, pháp luật.
1. Đảng đã ban hành các văn bản quy định về kiểm soát quyền lực như: Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán. Quy định số 131-QĐ/TW ra đời là một văn bản đặc biệt quan trọng thể hiện tính tất yếu thực tiễn đặt ra trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần vào việc bảo vệ cán bộ trước nguy cơ tha hóa quyền lực và những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực hiện nay.
2. Thanh tra Chính phủ cũng thể hiện tinh thần, quyết tâm cao trong việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực trong giai đoạn trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp bằng việc tham mưu, ban hành các văn bản pháp lý quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý quy định rõ ràng về quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình thanh tra. Cụ thể:
Trong công tác Đảng, Ban Cán sự Đảng Thanh tra Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, Kế hoạch, chỉ đạo nhằm cụ thể hóa quan điểm, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra và việc phát hiện, xử lý vi phạm qua hoạt động thanh tra; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, nhất là nâng cao trách nhiệm, đạo đức công vụ, xử lý nghiêm vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi nhiệm vụ thanh tra; nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ ban hành kết luận thanh tra; chuyển cơ quan điều tra những vụ việc có dấu hiệu tội phạm phát hiện ngay trong quá trình thanh tra; tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng (điều tra, kiểm sát, nội chính và Ủy ban kiểm tra của Đảng) trong phát hiện, chuyển giao vụ việc có dấu hiệu tội phạm và xử lý trách nhiệm cán bộ[1];
Trong công tác quản lý Nhà nước, Thanh tra Chính phủ thực hiện việc kiểm soát nội bộ khá hiệu quả bằng việc tham mưu, ban hành các văn bản pháp luật mang tính chất nội bộ nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, thắt chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ theo đúng ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đó là “nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào”[2].
Thứ hai, trong tổ chức thực hiện việc kiểm soát trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Quy định số 131-QÐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán của Bộ Chính trị, các cơ quan thanh tra, Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan thanh tra, người ra quyết định thanh tra, thủ trưởng đơn vị chủ trì cuộc thanh tra đã thực hiện kiểm soát nội bộ hiệu quả đối với hoạt động thanh tra và đã thu được những kết quả cụ thể: ngành Thanh tra đã phát hiện, xử lý nhiều vi phạm pháp luật, đồng thời kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục những bất cập, sơ hở trong quản lý, trong ban hành chính sách, pháp luật; các Đoàn thanh tra đã chấp hành tốt hơn Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra, thực hiện tốt hơn Quy tắc ứng xử, tăng tính tự giác, ý thức chấp hành kỷ luật của các thành viên Đoàn thanh tra, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, nhũng nhiễu của thành viên Đoàn thanh tra khi thi hành công vụ; công tác tổ chức cán bộ được chú trọng, thực hiện nghiêm túc việc luân chuyển, điều động vị trí công tác; thông qua việc giám sát hoạt động Đoàn thanh tra cũng góp phần bảo vệ cán bộ, thanh tra viên khi Đoàn thanh tra bị tố cáo vi phạm pháp luật.
2. Những vấn đề khó khăn, vướng mắc đặt ra
2.1 Trong việc ban hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thứ nhất, các quy định về kiểm soát quyền lực làm căn cứ để tổ chức triển khai thực hiện phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực trong giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp trên thực tế còn thiếu và chưa thực sự hiệu quả. Là cơ sở để các đối tượng có kẽ hở để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, làm giảm hiệu quả, thiếu tính độc lập, dẫn đến tình trạng khó phát hiện và xử lý các sai phạm.
Thứ hai, quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật Đảng và kỷ luật hành chính đối với cán bộ có hành vi tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật còn chưa đồng nhất. Về khiển trách, quy định kỷ luật Đảng có thời hiệu là 05 năm, quy định pháp luật hành chính là 02 năm; về cảnh cáo, quy định kỷ luật Đảng là 10 năm, quy định pháp luật hành chính là 05 năm. Do đó, một số trường hợp đã bị kỷ luật Đảng nhưng khi xem xét kỷ luật hành chính thì đã hết thời hiệu.
Thứ ba, nguyên tắc kiểm soát quyền lực theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các chỉ đạo của Đảng về tăng cường, nâng cao hiệu quả kiểm soát trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vẫn chưa được cụ thể hóa đầy đủ trong Luật Thanh tra năm 2022 và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Pháp luật về thanh tra không có chế định riêng về kiểm soát quyền thanh tra. Các quy định mang ý nghĩa kiểm soát quyền của các chủ thể tiến hành thanh tra hầu hết được thể hiện dưới dạng các tuyên bố về mục đích, nguyên tắc của hoạt động thanh tra, các quy định mang tính cấm đoán, các quy định về nhiệm vụ – quyền hạn của các chủ thể tiến hành thanh tra, về quyền của đối tượng thanh tra, các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra, ban hành kết luận thanh tra. Các quy định về xử lý vi phạm đối với các chủ thể tiến hành thanh tra cũng chỉ xác lập các nguyên tắc pháp lý chung, thiếu cụ thể về chế tài nên chưa thể áp dụng trong thực tiễn. Do đó, việc xây dựng các quy định mang tính kiểm soát (theo dõi, kiểm tra, đánh giá) đối với giai đoạn trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp còn chưa thực sự bao quát, thống nhất và đầy đủ.
Thứ tư, quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát “tự thân” đối với các chủ thể có thẩm quyền trong giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp còn thiếu và yếu. Mặc dù Thông tư số 08/2024/TT-TTCP ngày 18 tháng 12 năm 2024 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thực hiện quy định về trình tự, thủ tục tiến hành cuộc thanh tra đã cụ thể hóa việc kiểm soát hoạt động tiến hành thanh tra bằng cơ chế báo cáo như trưởng đoàn thanh tra giao nhiệm vụ kiểm tra, xác minh cho các thành viên đoàn thanh tra bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung công việc, thời gian thực hiện, thời hạn báo cáo; thành viên đoàn thanh tra phải hoàn thành nhiệm vụ trong thời hạn được giao và báo cáo trưởng đoàn thanh tra về việc thực hiện nhiệm vụ được giao ngay sau khi hoàn thành.… Tuy nhiên, các quy định này chỉ được thể hiện trong Thông tư, hiệu lực pháp lý không cao, nên cần phải được thể chế hóa tại văn bản luật có giá trị pháp lý cao hơn.
2.2 Trong tổ chức thực hiện.
Thứ nhất, số lượng các vụ việc tham nhũng, tiêu cực được phát hiện càng nhiều, hậu quả vi phạm càng lớn, thì càng cho thấy công tác kiểm soát trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp còn nhiều hạn chế. Những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian vừa qua là những kết quả đáng mừng, nhưng đồng thời cũng là thực trạng báo động đối với công tác kiểm soát trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp nói riêng và công tác phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam nói chung. Qua nghiên cứu, nhận diện một số các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực có thể thấy, chủ thể tham nhũng, tiêu cực chủ yếu là những người nắm giữ quyền lực cao, có năng lực quyết định đối với việc tiến hành một cuộc thanh tra trực tiếp. Các chủ thể thực hiện quyền lực trong hoạt động tiến hành thanh tra có biểu hiện lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chủ động vòi vĩnh hối lộ, để bỏ qua các vi phạm cho các doanh nghiệp, hiệp hội, nhóm lợi ích công – tư hoặc cá nhân; hoặc thụ động nhận hối lộ để ghi nhận, thể hiện trong kết luận thanh tra, quyết định, kiến nghị xử lý về thanh tra các lợi ích cục bộ của một nhóm lợi ích. Một số vụ việc tham nhũng, tiêu cực xảy ra trong các cơ quan thanh tra gần đây là vụ việc có tổ chức, có sự bàn bạc, thống nhất, phân công trách nhiệm giữa các cán bộ thanh tra để cùng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Đặc điểm này cũng xuất phát từ phương thức hoạt động thanh tra do Đoàn thanh tra tiến hành. Việc chính cán bộ thuộc cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lại có hành vi tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật sẽ làm ảnh hướng lớn đến công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và nhà nước và niềm tin của nhân dân[3].
Thứ hai, Một số chủ thể còn bị động, né tránh trách nhiệm trong hoạt động thanh tra hoặc bị các tổ chức, cá nhân, nhóm lợi ích chi phối quá trình thanh tra và ban hành kết luận thanh tra dẫn đến khó khăn trong việc xử lý trách nhiệm. Qua nghiên cứu, vẫn còn tình trạng Trưởng đoàn thanh tra không quản lý, điều hành và kiểm soát tốt mọi công việc của đoàn thanh tra theo kế hoạch, đề cương thanh tra; không kiểm soát được nhân sự và tình hình tổ chức, hoạt động của đoàn thanh tra; xảy ra tình trạng xung đột về lợi ích hoặc xung đột về quan điểm nghiệp vụ – pháp luật hoặc xung đột do công tác quản lý, điều hành của trưởng đoàn thanh tra còn bất cập; xung đột về phương pháp công tác giữa đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra với tổ hoặc công chức được phân công giám sát hoạt động của đoàn thanh tra[4].
2.3 Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp nói riêng và hoạt động thanh tra nói chung giữa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước chưa thực sự đồng bộ, nhất quán giữa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Quy định pháp luật nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực trong giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp thiếu chặt chẽ, quy trình tiến hành thanh tra còn chưa khoa học, không phù hợp, nhiều kẽ hở sẽ tạo cơ hội phát sinh vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực. Thiếu các cơ chế hữu hiệu nhằm kiểm soát quyền lực trong hoạt động thanh tra, thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hợp lý của người trao quyền đối với người nắm quyền. Việc tổ chức giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra, việc thẩm định dự thảo kết luận thanh tra một số nơi còn còn chưa được đề cao hoặc không bảo đảm thực hiện ở nhiều nơi; việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm và xử lý các sai phạm trong hoạt động tiến hành thanh tra nhằm thắt chặt quản lý nhà nước trong giai đoạn này chưa được quan tâm đúng mức tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát sinh và gia tăng của hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực trong quá trình tiến hành hoạt động thanh tra.
Hai là, thiếu việc bảo đảm thực tế về dân chủ, về quyền tiếp cận thông tin; thiếu sự thừa nhận các ý kiến phản biện đa chiều; thiếu sự giám sát nội bộ và từ phía xã hội đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, của cơ quan thanh tra, của Đoàn thanh tra; thiếu sự công khai, minh bạch và thiếu sự bảo đảm về trách nhiệm giải trình của các chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động tiến hành thanh tra trực tiếp. Trên phương diện khác, trình độ dân trí chưa cao là môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển của tham nhũng, tiêu cực và tha hóa quyền lực trong mọi lĩnh vực. Bởi khi người dân không có đủ năng lực, điều kiện bảo đảm để khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về các hiện tượng tha hóa quyền lực hoặc không có khả năng phản hồi về các biểu hiện vi phạm pháp luật của các chủ thể tiến hành thanh tra thì các chủ thể tiến hành thanh tra có nguy cơ phát sinh hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực mà không gặp các trở ngại chính trị – pháp luật do phản ứng của dư luận và truyền thông. Ngược lại, việc tham gia rộng rãi, hiệu quả của các tầng lớp nhân dân vào quá trình hoạt động thanh tra sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể tham gia vào quá trình tiến hành thanh tra; sẽ khiến các chủ thể này khó có khả năng tha hóa, hay các nhóm lợi ích tiêu cực không có điều kiện để thực hiện các hành động có lợi cho mình.
Ba là, bất cập về bảo đảm điều kiện tài chính, kỹ thuật, nhân lực cho hoạt động thanh tra. Với một lượng tài chính đầu tư cho hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động tiến hành thanh tra trực tiếp không được đảm bảo phù hợp từ ngân sách nhà nước sẽ khiến khả năng hoạt động thanh tra khó có thể thực hiện được hoặc thực hiện qua loa, chiếu lệ; các chủ thể của hoạt động tiến hành thanh tra không thể yên tâm thực hiện tốt một công việc phức tạp, nhạy cảm này và luôn tiềm ẩn khả năng chịu sự tác động tiêu cực của đối tượng thanh tra, các nhóm lợi ích, nhóm thân hữu và các đối tượng có liên quan.
3. Một số đề xuất, kiến nghị kiểm soát trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực
3.1 Hoàn thiện hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán giữa văn bản pháp luật của Đảng và văn bản pháp luật của Chính phủ trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, kỷ luật Đảng và kỷ luật hành chính;
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình khi xây dựng, phê duyệt Chương trình, kế hoạch thanh tra; bổ sung các quy định về kiểm soát quyền lực trong hoạt động tiến hành thanh tra, trong đó có cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hợp lý của người trao quyền đối với người nắm quyền; bổ sung quy định cụ thể về trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc chủ động xây dựng các hoạt động kiểm soát nội bộ cần thiết đối với giai đoạn trước và sau hoạt động tiến hành thanh tra trực tiếp ở tất cả các cấp, các ngành, góp phần phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực trong chính nội bộ các cơ quan, chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra; bổ sung các quy định cụ thể có tính chất chế tài xử lý các trường hợp thực hiện không đúng và không đầy đủ kết luận thanh tra; bổ sung các quy định bảo đảm tính khách quan, nhằm khắc phục tình trạng xung đột lợi ích trong công tác quản lý, điều hành trong đoàn thanh tra, giữa các thành viên đoàn thanh tra với tổ hoặc công chức được phân công giám sát hoạt động của đoàn thanh tra.
3.2 Nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện.
Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Quy định số 131-QĐ/TW, ngày 27/10/2023 của Ban Bí thư về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán, để từ đó xây dựng hiệu quả cơ chế răn đe cán bộ không dám lợi dụng quyền hạn nhằm hợp pháp hóa hoặc bao che sai phạm trong thực thi nhiệm vụ; tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, góp phần tích cực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Để có thể kiểm soát quyền lực nhằm phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm, từ xa, điều quan trọng nhất vẫn là xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực có bản lĩnh vững vàng, có dũng khí đấu tranh; trung thực, liêm chính. Gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tổ chức cán bộ, xử lý nghiêm sai phạm theo quy định về kỷ luật của Đảng, Nhà nước và xử lý hình sự. Từ đó, khẳng định quyết tâm mạnh mẽ, “không ngừng”, “không nghỉ”, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Tích cực đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, học hỏi kinh nghiệm để nâng cao năng lực, đạo đức liêm chính cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, từng bước chuẩn hóa đội ngũ công chức, thanh tra viên. Muốn kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực trước và sau hoạt động tiến hành thanh tra, nếu chỉ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực về tiền bạc, tài sản là chưa đủ, mà cần phải phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ thanh tra, bởi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mới là gốc của tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục xây dựng, quán triệt, triển khai thực hiện các quy định về đạo đức, văn hóa liêm chính… tạo khuôn khổ thể chế giúp cán bộ, công chức, viên chức định vị hành vi đạo đức của bản thân trong công việc, cuộc sống cho đúng, tránh được vi phạm.
Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân; tiếp nhận các ý kiến phản biện đa chiều; tăng cường giám sát nội bộ và từ phía xã hội đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, của cơ quan thanh tra nhà nước, của đoàn thanh tra;
Xây dựng cơ chế khen thưởng, kỷ luật, đổi mới việc đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ trong hoạt động thanh tra (theo hướng xây dựng tiêu chí đánh giá, như: việc đảm bảo mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra, phạm vi, nội dung, thời kỳ, thời hạn thanh tra, tiến độ và chất lượng ban hành Kết luận thanh tra…), coi đây là tiêu chí quan trọng cho công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật cán bộ; kiên quyết không xem xét về công tác cán bộ đối với trường hợp cán bộ được đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ thanh tra, nhất là có vi phạm trong quá trình thanh tra. Khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công tác thanh tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm../
ThS. Đào Thị Thu Hà
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] Nghị quyết số 76-NQ/BCS ngày 06/6/2023 của Ban Cán sự Đảng Thanh tra Chính phủ về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra và việc phát hiện, xử lý vi phạm qua thanh tra; Nghị quyết số 122-NQ/BCSĐ ngày 01/3/2024 của Ban cán sự đảng Thanh tra Chính phủ về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng, tiến độ, hiệu quả công tác thanh tra và xử lý các sai phạm trong hoạt động thanh tra; Nghị quyết số 45-NQ/BCSĐ ngày 22/7/2022 của Ban cán sự Đảng về lãnh đạo chỉ đạo nâng cao chất lượng và tiến độ ban hành kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ; Quyết định số 56/QĐ-TW ngày 08/02/2022 về Quy chế phối hợp giữa các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; Nghị quyết số 38-NQ/ĐU.23 ngày 29/9/2022 của Ban Thường vụ Đảng ủy về lãnh đạo chỉ đạo nâng cao chất lượng và tiến độ ban hành kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ; Nghị quyết số 68-NQ/BCSĐ ngày 15/3/2023 về công tác cán bộ, là cơ sở để ban hành Kế hoạch số 16-KH/BCSĐ ngày 10/4/2023 của Ban Cán sự Đảng Thanh tra Chính phủ về công tác cán bộ…
[2] Tham mưu Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030; ban hành Chỉ thị 26/CT-TTg về việc chấn chỉnh, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ ngày 20/10/2023 nhằm kiểm soát quyền lực phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Tham mưu trình Quốc hội ban hành Luật Thanh tra 2022 và Nghị định 43/2023 ngày 30/6/2023 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành của Luật Thanh tra 2022; ban hành Thông tư 06/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 quy định về tổ chức, hoạt động của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra; ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động Đoàn thanh tra kèm theo Quyết định số 465/QĐ-TTCP ngày 29/11/2022.
[3] Ví dụ về một số vụ việc điển hình được cơ quan thanh tra phát hiện trong giai đoạn trước và sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp: 1. Giai đoạn trước giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp: Vụ 4 thành viên Đoàn thanh tra Bộ Xây dựng tại Vĩnh Phúc bàn bạc “vòi tiền”, nhận hơn 2 tỉ; 2. Giai đoạn sau giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp: Vụ Nhóm cựu cán bộ Thanh tra Chính phủ và Lâm Đồng bị cáo buộc thông đồng, giúp đại gia Nguyễn Cao Trí “bẻ lái” kết luận thanh tra thâu tóm siêu Dự án Đại Ninh và nhận “cảm ơn” (…)
[4] TS. Nguyễn Quốc Văn, đề tài khoa học cấp Bộ “Kiểm soát quyền lực trong hoạt động thanh tra”, Thanh tra Chính phủ, 2022, trang 45.