1. Yêu cầu đặt ra về việc kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
Kiểm soát quyền lực (KSQL) là yếu tố then chốt đề phòng, chống tham nhũng (PCTN). Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, vì vậy, cần huy động sức mạnh của nhiều cấp, ngành trong đó cần đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân với mục đích: “lấy dân làm gốc” là biện pháp phòng ngừa tham nhũng trên thực tế mang lại hiệu quả to lớn.
Nhận thức được vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, thời gian qua Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm phát huy vai trò bảo đảm quyền làm chủ, quyền giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW nhằm xác lập cơ sở chính trị và cơ chế cụ thể cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam như sau: “Giám sát và phản biện xã hội” là giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Ngày 15/6/2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ký Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN quy định chi tiết về các hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để MTTQ Việt Nam triển khai hiệu quả hơn nữa hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Ngày 30/10/2018, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Ban Thường trực) đã phối hợp với các tổ chức chính trị – xã hội ban hành Chương trình phối hợp số 30/CTPH-MTTW-TCTV, “Về phối hợp giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII”.
Mặt khác, để đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, Kết luận số 19-KL/TW, ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ: “Phát huy vai trò của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc nâng cao chất lượng công tác phản biện xã hội đối với quy trình lập pháp và giám sát việc thực hiện pháp luật; chú trọng bản lĩnh, ý thức chính trị, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào trong quá trình giám sát, phản biện xã hội”[1]. Ngày 31/3/2017, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành Kế hoạch số 361/KH-MTTW-BTT ngày 31/3/2017 về giám sát việc công khai kết luận thanh tra và phối hợp với Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam, Liên đoàn luật sư Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam tiến hành giám sát việc công khai kết luận thanh tra tại 5 bộ, ngành (Thanh tra Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Y tế) và 5 tỉnh (Ninh Bình, Thừa Thiên – Huế, Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đắc Lắk)[2].
Về pháp luật chuyên ngành, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đưa ra các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể xã hội trong PCTN. Theo đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cụ thể là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. Ngoài ra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn mang tính xã hội: đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh” (Điều 25).
Đối với trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong PCTN, Luật PCTN 2018 quy định, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; phản biện xã hội, kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng; kiến nghị việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng; động viên Nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, phản ánh, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng; cung cấp thông tin cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng; giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, xác minh vụ việc tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, kiến nghị việc bảo vệ, khen thưởng người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, kiến nghị; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày (Điều 74).
Bên cạnh đó, về trách nhiệm của công dân, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, Luật PCTN 2018 quy định, công dân tự mình hoặc thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc thông qua tổ chức mà mình là thành viên tham gia phòng, chống tham nhũng. Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật hiện hành đã tạo lập khung pháp lý khá toàn diện về vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân trong kiểm soát quyền lực (KSQL) đối với cơ quan hành chính nhà nước; tạo lập cơ chế để các chủ thể giám sát của xã hội trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện vai trò, trách nhiệm của mình trong việc KSQL nhằm PCTN. Các văn bản pháp luật cũng đã bước đầu quy định thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự thủ tục, việc giải quyết kết quả giám sát… và trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, cơ chế pháp lý điều chỉnh vấn đề này vẫn chưa hoàn thiện, tại Đại hội XIII cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, “việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều”[3].
Thực tiễn cho thấy, hiệu quả động giám sát, phản biện xã hội chưa cao, điều này xuất phát từ một số nguyên nhân:
Một là, pháp luật chưa thiết kế được mô hình bảo đảm cho các chủ thể giám sát từ phía xã hội hoạt động độc lập. Do vậy, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân trong việc kiểm soát quyền lực đối với cơ quan hành chính nhà nước hiện nay rất mờ nhạt. Các quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ giám sát của các chủ thể này đối với cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu là quy định về trách nhiệm của các tổ chức này trong việc động viên hội viên và nhân dân tham gia giám sát mà chưa có quy định về chủ thể, thẩm quyền, nội dung, phương thức, trình tự, thủ tục, kết quả giám sát… nhằm tạo cơ sở pháp lý cho chủ thể giám sát xã hội thực hiện việc giám sát. Thể chế pháp lý tồn tại nhiều quy định mang tính chất “ban phát” cho chủ thể giám sát xã hội khi thực hiện quyền giám sát. Ví dụ, Điều 101 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị – xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan” trong khi đó, Điều 9 Luật về Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: “Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có thể được mời tham gia hoạt động giám sát”. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương được mời tham dự các… phiên họp UBND cùng cấp khi bàn về các vấn đề có liên quan (Điều 15, Điều 116 Luật Tổ chức chính quyền địa phương).
Hai là, thể chế pháp lý chưa xây dựng được cơ chế phối hợp hiệu quả giữa hai loại hình giám sát của xã hội và giám sát của Nhà nước (Quốc hội, HĐND) chưa thực sự hiệu quả nên nhiều kiến nghị của các chủ giám sát xã hội chưa được xử lý kịp thời hoặc chưa được tiếp tục theo dõi, giám sát tiếp. Ngoài ra, việc phối hợp giải quyết kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, các Bộ, ngành nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân; vẫn còn tình trạng một số kiến nghị giám sát giải quyết kéo dài, không dứt điểm, có sự đùn đẩy, né tránh của các cơ quan chức năng.
Ba là, thể chế pháp lý còn thiếu những quy định về hoạt động giải trình, thiếu cơ chế tiếp nhận và giải quyết kiến nghị, do vậy hoạt động giám sát từ phía các chủ thể giám sát xã hội còn mang tính hình thức. “Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp Nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của Nhân dân”4. Theo đó, phương thức giám sát chủ yếu hiện nay là nghe báo cáo của các cơ quan; thời điểm giám sát là giám sát kết quả thực hiện nhiệm vụ mà không phải là giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ; báo cáo kết quả giám sát được ban hành nhưng không có cơ chế theo dõi, giám sát quá trình thực hiện do việc theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị sau giám sát, phản biện xã hội của chủ thể giám sát xã hội còn chưa thường xuyên; chưa có chế tài áp dụng đối với các đối tượng giám sát (các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền) trong việc không hoặc chậm tiếp nhận và xử lý kết quả giám sát do Mặt trận Tổ quốc kiến nghị. Thực tế cho thấy, việc giám sát, phản biện xã hội đối với các báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan có trách nhiệm như: Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Công an, Thanh tra của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trên thực tế chưa được thực hiện.
Ví dụ, việc tiếp cận các kết luận thanh tra của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, nhìn chung được thực hiện theo đúng quy định. Tuy nhiên, do hiện chưa có cơ chế giám sát cụ thể trong công khai kết luận thanh tra nên việc thực hiện còn những hạn chế khó khăn nhất định.
Bốn là, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa thực sự chủ động tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các cơ chế, chính sách có liên quan thiết thực đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và đời sống của nhân dân, đặc biệt đối với các lĩnh vực dễ xẩy ra tham nhũng, tiêu cực: đất đai, tài nguyên, tài chính, ngân sách…
Năm là, trách nhiệm giám sát của các chủ thể xã hội hiện nay đối với công tác phòng, chống tham nhũng chưa được phát huy. Thực tế rất ít các vụ việc tham nhũng, tiêu cực được phát hiện bởi các chủ thể giám sát từ xã hội. Bên cạnh đó, một bộ phận người dân chưa tham gia tích cực trong việc đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng. Nguyên nhân là do pháp luật hiện hành chưa có cơ chế hiệu quả để người dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về hành vi tham nhũng, tiêu cực; chưa có cơ chế để bảo vệ người dân phản ánh, kiến nghị về tham nhũng, tiêu cực.
Sáu là, kinh phí hoạt động của Mặt trận các cấp, nhất là cấp cơ sở hiện nay còn rất nhiều khó khăn; Trình độ năng lực của một bộ phận đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, số lượng cán bộ chuyên trách tham mưu triển khai thực hiện còn thiếu.
2. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực của các chủ thể giám sát xã hội nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội tham gia kiểm soát quyền lực chính trị; phát huy quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trách nhiệm phòng, chống tham nhũng trước hết thuộc về các cơ quan nhà nước, bên cạnh đó cần phát huy vai trò của các tổ chức và từng thành viên trong xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Cùng với kiểm soát quyền lực từ phía các cơ quan nhà nước, cần coi giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân là một nhu cầu tất yếu trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Kiểm soát quyền lực từ phía xã hội sẽ giúp nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động giám sát và phản biện từ phía các chủ thể xã hội. Qua đó đảm bảo sự công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng.
* Giải pháp:
Thứ nhất, hoàn thiện quy phạm pháp luật quy định địa vị pháp lý của chủ thể giám sát xã hội nhằm bảo đảm tính độc lập của các chủ thể này trong kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan nhà nước nhằm phòng, chống tham nhũng. Theo đó, quy định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ giám sát của các chủ thể giám sát xã hội đối với cơ quan hành chính. Những nội dung cần được xác định rõ: chủ thể, thẩm quyền, nội dung, phương thức, trình tự, thủ tục, kết quả giám sát nhằm tạo cơ sở pháp lý cho chủ thể giám sát từ phía xã hội thực hiện việc giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính.
Thứ hai, xây dựng cơ chế phối hợp giữa hai loại hình giám sát của xã hội và giám sát của Nhà nước (Quốc hội, HĐND). Quốc hội và Uỷ ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần ban hành quy chế phối hợp giữa hai thiết chế giám sát trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch giám sát, phản biện xã hội nhằm phát huy thế mạnh của mỗi bên. Cơ chế phối hợp giữa hai thiết chế giám sát này sẽ giúp phát huy thế mạnh của mỗi bên trong kiểm soát quyền lực nhằm PCTN. Giám sát của xã hội không mang tính quyền lực nhà nước, kết quả giám sát từ phía xã hội chính là những thông tin được kiến nghị, phản ánh đến các cơ quan có thẩm quyền nhằm xử lý các hành vi vi phạm. Do vậy, để cơ chế phối hợp giữa hai thiết chế này mang lại hiệu quả cần đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ về trình tự, thủ tục, nội dung, trách nhiệm giữa các bên trong mối quan hệ phối hợp.
Quốc hội và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tham mưu góp ý kiến đối với nhiều dự án luật, pháp lệnh, tập trung vào một số dự án luật có nội dung liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của các tầng lớp Nhân dân, đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội cần tăng cường phối hợp một cách đồng bộ với các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Thứ ba, đổi mới phương thức giám sát thông qua việc hoàn thiện cơ chế tiếp thu, giải trình những kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân trong hoạt động giám sát: (1) Giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng giám sát thay cho cho hoạt động giám sát kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước như hiện tại; (2) Quy định cơ chế theo dõi, giám sát quá trình thực những kiến nghị sau giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân; (3) Áp dụng chế tài đối với các đối tượng giám sát (các CQNN và người có thẩm quyền) trong việc không hoặc chậm tiếp nhận và xử lý kết quả giám sát do Mặt trận Tổ quốc kiến nghị; (4) Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý phản ánh của người dân trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Thứ tư, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục tăng cường hơn nữa vào quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đặc biệt đối với các lĩnh vực dễ xẩy ra tham nhũng, tiêu cực: đất đai, tài nguyên, tài chính, ngân sách, tổ chức bộ máy các thiết chế trong hệ thống chính trị, công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước…
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin từ các tầng lớp nhân dân, từ xã hội nói chung và cơ chế tiếp nhận thông tin phản ánh của người dân trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nói riêng nhằm nâng cao trách nhiệm và phát huy vai trò của các chủ thể giám sát xã hội đối với công tác phòng, chống tham nhũng.
Thứ sáu, kiện toàn và nâng cao năng lực, trình độ, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội đặc biệt chú trọng bố trí cán bộ chuyên trách tham mưu triển khai thực hiện giám sát; quy định nguồn kinh phí bảo đảm cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội trong công tác giám sát, phản biện xã hội; có cơ chế động viên, khen thưởng đối với các chủ thể giám sát từ phía xã hội qua đó huy động đông đảo lực lượng tham gia vào công tác giám sát, phản biện xã hội nói chung và công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng.
Thứ bảy, đẩy mạnh việc tham gia và giám sát dân chủ ở xã, phường, thị trấn; nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; tập trung đẩy mạnh hoạt động giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân ở cơ sở, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ giám sát đầu tư của cộng đồng./.
Trần Lan Hương
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] Kết luận số 19-KL/TW, ngày 14-10-2021, của Bộ Chính trị, “Về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”
[2] Báo cáo kết quả giám sát việc công khai kết luận thanh tra năm 2017 của Ban Thường trực, Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.191-192; tr.250, tr.205; tr.88