1. Một số vấn đề chung về giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác phòng, chống tham nhũng
Các học thuyết về dân chủ, dân quyền trong lịch sử lý luận về nhà nước và pháp luật đã cho thấy, nguồn gốc của quyền lực Nhà nước là từ nhân dân. Chính nhân dân đã tổ chức ra Nhà nước và trao quyền cho Nhà nước để tổ chức, quản lý xã hội nhằm duy trì trật tự và bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Khi được trao quyền, con người (cán bộ, công chức) thường có xu hướng lợi dụng quyền lực để tư lợi. Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực luôn được đặt ra và là nhu cầu tất yếu từ chủ thể ủy quyền đối với chủ thể được ủy quyền. Không có kiểm soát quyền lực hoặc kiểm soát quyền lực yếu thì quyền lực tất yếu bị lạm dụng, phục vụ cho lợi ích riêng, lợi ích nhóm, quyền lực bị tha hóa dẫn đến quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sẽ không đạt được mục đích như mong muốn. Cùng với quá trình phát triển của xã hội và khoa học về tổ chức thì phương thức nhân dân trao quyền cho Nhà nước và cách thức Nhà nước tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước cũng ngày càng hoàn thiện. Mặc dù trong tiến trình lịch sử này có sự thay đổi và khác biệt nhất định giữa các quốc gia hoặc trong các thời kỳ lịch sử về phương thức, cách thức trao quyền, tổ chức thực hiện quyền lực, tuy nhiên một xu thế phổ thông và tất yếu đó là các chủ thể khi trao quyền đều cố gắng giữ lại và xây dựng một cơ chế nhằm bảo đảm quyền lợi cùa mình sau khi đã trao quyền cho chủ thể khác. Một trong những cơ chế phổ biến và hữu hiệu nhất đó là thông qua giám sát.
Nếu xem xét trong mối quan hệ giữa nhân dân và Nhà nước thì có nhiều cách thức và công cụ khác nhau để nhân dân thực hiện cũng như bảo đảm quyền lực của mình. Có thể là trực tiếp thông qua quyền bầu cử, ứng cử, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, v.v. hoặc cũng có thể gián tiếp thông qua các tổ chức đại diện, trong đó Quốc hội là chủ thể quan trọng nhất ở trung ương và Hội đồng nhân dân là chủ thể quan trọng ở địa phương. Tuy nhiên, giám sát trực tiếp của nhân dân vẫn luôn là một cơ chế quan trọng, luôn được đề cao với đặc tính là một hoạt động giám sát mang tính quyền lực nhân dân – một hoạt động giám sát từ bên ngoài bộ máy nhà nước nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân.
Còn nếu xét trong mối quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước thì giám sát được hiểu là việc thiết lập, xây dựng một cơ chế để phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hữu hiệu nhất giữa ba nhánh quyền, tương ứng với là ba chủ thể là: Nghị viện/Quốc hội – thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ – thực hiện quyền hành pháp và Tòa án – thực hiện quyền tư pháp. Đây là hoạt động giám sát mang tính quyền lực nhà nước – một hoạt động giám sát bên trong bộ máy nhà nước và về lý thuyết, cả ba nhánh quyền lực này đều cần thiết phải được giám sát.
Thực tế cho thấy, ở từng nước khác nhau thì cơ chế giám sát của ba chủ thể này được xây dựng là không giống nhau. Tuy nhiên, dù có được tổ chức và thực hiện theo cách thức nào đi nữa thì trong 03 chủ thể ấy, Quốc hội luôn được trao quyền giám sát như một tất yếu bởi vị trí, vai trò là cơ quan đại diện dân cử phản ánh tiếng nói, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi của cử tri; hơn nữa, còn đảm nhiệm vai trò làm ra pháp luật cho Chính phủ thực thi, cho Tòa án bảo vệ.
Ở Việt Nam cũng như các nước áp dụng nguyên tắc tổ chức tập trung quyền lực thì giám sát sẽ được trao cho chủ thể mang quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội (ở địa phương là Hội đồng nhân dân). Bởi ở đó, Quốc hội quyết định tổ chức, hoạt động của hai chủ thể còn lại. Có thể nói, việc Quốc hội nước ta thực hiện quyền giám sát tối cao xuất phát từ nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” đã được quy định trong Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Cơ quan tổ chức quyền lực nhà nước cần phải kiểm soát hoạt động của các chủ thể được trao quyền trong bộ máy nhà nước nhằm duy trì sự vận hành của bộ máy theo hướng đáp ứng tốt nhất ý chí và nguyện vọng của nhân dân, nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, đặc biệt là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa[1] và phòng, chống tham nhũng. Với nguyên tắc ấy, Hiến pháp cũng như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát đều đã ghi nhận Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước.
Giám sát được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định”[2] hay là “sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được những mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước”[3]. Giám sát là hoạt động có mục đích của một chủ thể có quyền đối với một đối tượng nhất định. Nó giống với thanh tra, kiểm tra nhưng lại khác biệt với quan sát thông thường; Giám sát mang tính bao quát và mục đích chủ yếu là nhằm bảo đảm sự tuân thủ của đối tượng bị giám sát. Nó khác với mục đích của kiểm tra, thanh tra là tìm kiếm sự vi phạm.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, giám sát được hiểu là hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) thực hiện việc theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, cá nhân do cơ quan dân cử bầu, thành lập, phê chuẩn hoặc các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi xét thấy cần thiết theo quy định nhằm bảo đảm các đối tượng chịu sự giám sát khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật[4].
Giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác phòng, chống tham nhũng là việc thực hiện quyền lực nhà nước được Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Phòng, chống tham nhũng ghi nhận. Theo đó, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; Hội đồng nhân dân, Ban pháp chế Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thực hiện thẩm quyền giám sát này. Mọi hoạt động giám sát phải bảo đảm công khai, khách quan, minh bạch, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo luật định và không làm cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát; chủ thể giám sát phải chịu trách nhiệm về các quyết định, yêu cầu, kiến nghị giám sát. Đồng thời, với tính chất là cơ quan đại diện thì hoạt động giám sát còn phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, gắn bó với nhân dân, phát huy sự tham gia của nhân dân, các tổ chức xã hội mới bảo đảm tăng cường hiệu quả giám sát.
Từ các quy định của pháp luật, có thể khái quát về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan dân cử trong giám sát công tác phòng, chống tham nhũng như sau:
– Về chủ thể và phạm vi giám sát:
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng trong phạm vi cả nước.
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có thẩm quyền giám sát công tác phòng, chống tham nhũng thuộc lĩnh vực được giao phụ trách. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội còn có thẩm quyền giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng trong phạm vi cả nước.
Đoàn đai biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội có thẩm quyền giám sát công tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn địa phương mình.
Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân giám sát công tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn địa phương mình.
– Về chủ thể chịu sự giám sát: Hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong công tác phòng, chống tham nhũng, việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng; tập trung vào các cơ quan có chức năng chính trong công tác này như Thanh tra, Kiểm toán, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Cơ quan thi hành án.
– Về hình thức giám sát: Tùy từng chủ thể giám sát, các hình thức giám sát có thể là xem xét báo cáo công tác, chất vấn, thẩm tra báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng, thành lập Đoàn giám sát và xem xét kết quả giám sát, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban[5].
– Về thẩm quyền trong hoạt động giám sát: Yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu; yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái, chưa phù hợp với Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, Nghị quyết do Hội đồng nhân dân ban hành; yêu cầu chấm dứt hành vi vi pham pháp luật; xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; ra nghị quyết về trả lời chất vấn của đối tượng trả lời chất vấn khi xét thấy cần thiết; kiến nghị hoặc thực hiện theo thẩm quyền việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; kiến nghị chấn chỉnh hoạt động của các chủ thể chịu sự giám sát trong công tác phòng, chống tham nhũng…
Nhìn chung, giám sát của Cơ quan dân cử trong công tác phòng, chống tham nhũng có những vai trò nhất định như:
Một là, là phương thức để Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thực hiện quyền lực của nhân dân trong việc “kiểm soát” hoạt động của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng. Thông qua hoạt động giám sát, cơ quan dân cử đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời đưa ra những kết luận, yêu cầu, kiến nghị chủ thể chịu sự giám sát phải thực hiện trong thời gian tới. Hoạt động giám sát vừa giúp tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, vừa là phương thức để các cơ quan dân cử thực hiện việc “kiểm soát” việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước;
Hai là, hoạt động giám sát được coi là một trong những công cụ hữu hiệu để cơ quan dân cử trực tiếp xem xét, đánh giá và chỉ ra những hạn chế, tồn tại của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong thực thi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định;
Ba là, việc tổ chức các hoạt động giám sát về những vấn đề được quan tâm thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước sẽ tác động tích cực đến nhận thức và trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát. Thông qua hoạt động giám sát, giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có thể nhận thức được đầy đủ hơn về tình hình hoạt động của mình và kịp thời đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm cho các hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện thông suốt, đúng quy định của pháp luật;
Bốn là, thông qua giám sát, góp phần thúc đẩy cơ quan, tổ chức, cá nhân sớm vào cuộc giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc phát sinh từ đời sống xã hội, kịp thời bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cử tri và nhân dân.
Năm là, thông qua hoạt động giám sát, giúp cho cơ quan dân cử và các cơ quan, tổ chức hữu quan đánh giá hiệu lực, hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các các bộ, ngành trung ương ban hành, qua đó từng bước kiến nghị xây dựng, hoàn thiện thể chế trong từng lĩnh vực cụ thể.
2. Thực trạng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với công tác phòng, chống tham nhũng
Trong những năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế – xã hội; trật tự, an ninh xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đã đạt được, công cuộc đổi mới đất nước đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó có tệ nạn tham nhũng. Để cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã tập trung xây dựng, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật để làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN). Quốc hội đã ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế nhiều đạo luật quan trọng liên quan trực tiếp đến công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng như Bộ luật Hình sự, Luật PCTN năm 2018, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2019, Luật Thanh tra năm 2022, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân… Những nỗ lực của Nhà nước trong hoạt động xây dựng thể chế, chính sách PCTN đã mang lại một số thành tựu quan trọng. Bộ máy chỉ đạo và các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng dần được củng cố, kiện toàn, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động; các biện pháp phòng ngừa tham nhũng ngày càng được chú trọng hoàn thiện, tạo cơ sở căn bản, lâu dài để chủ động ngăn chặn ngay từ đầu nguy cơ tham nhũng, từng bước hạn chế, đẩy lùi nạn tham nhũng; cơ chế phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng ngày càng minh bạch, bảo đảm tính kịp thời, nghiêm minh, phát hiện đến đâu, xử lý đến đó; không có vùng cấm, không có ngoại lệ; hành lang pháp lý cho hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận, nhân dân ngày càng hoàn thiện, việc thực hiện cũng được đẩy mạnh, tập trung giám sát các lĩnh vực có nguy cơ cao xảy ra tham nhũng đã tác động tích cực đến việc chấp hành pháp luật và phòng, chống tham nhũng của các chủ thể chịu sự giám sát…
Mặc dù vậy, tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Trong khi đó, “công tác PCTN vẫn chưa đạt được yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng…”[6].
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa loại trừ được cơ chế “xin – cho”; việc kiện toàn các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị chưa theo kịp sự phát triển của đời sống kinh tế – xã hội; một bộ phận cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống còn thấp; việc tổ chức thực hiện các chủ trương, giải pháp về PCTN được đề ra trong những năm qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, hiệu quả chưa cao, kiểm soát quyền lực còn lỏng lẻo, hoạt động kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng chưa được chú trọng tăng cường. Để góp phần ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ dần các cơ hội, điều kiện phát sinh tham nhũng, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính; lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục kiên trì chủ trương sử dụng tổng thể các giải pháp PCTN; vừa tích cực, chủ động trong phòng ngừa, vừa kiên quyết trong phát hiện, xử lý với những bước đi vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, trong đó phòng ngừa là cơ bản, lâu dài. Trong giai đoạn hiện nay, một trong những biện pháp hữu hiệu để cụ thể hóa các chủ trương trên, bảo đảm pháp luật được thực thi có hiệu quả trên thực tế, qua đó góp phần vào công tác phòng, chống tham nhũng là tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác PCTN nói chung cũng như tiếp tục đẩy mạnh công tác giám sát của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đối với công tác phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng nói riêng. Đồng thời, cần đề cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự giám sát trong việc thực hiện các yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát công tác PCTN.
2.1. Giám sát công tác PCTN của cơ quan quyền lực nhà nước thông qua thẩm tra, xét báo cáo của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp
Hằng năm và mỗi cuối nhiệm kỳ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân xem xét báo cáo công tác năm và báo cáo công tác nhiệm kỳ của Chính phủ, Ủy ban nhân dân cùng cấp về công tác PCTN, việc phát hiện và xử lý tham nhũng. Để có cơ sở cho Quốc hội xem xét, thảo luận về báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng, Ủy ban Tư pháp chủ trì Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội phối hợp để thẩm tra báo cáo trước khi trình Quốc hội[7]. Báo cáo thẩm tra là một kênh thông tin quan trọng giúp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội nắm được thực chất và có cơ sở để đánh giá chính xác hơn về tình hình tham nhũng đang diễn ra cũng như kết quả công tác đấu tranh PCTN, việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Nhìn chung, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp cơ bản đã phản ánh, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về chất lượng và hiệu quả hoạt động công tác đấu tranh PCTN, hạn chế, tồn tại, nguyên nhân, làm rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đồng thời kiến nghị nhiều giải pháp khắc phục làm căn cứ quan trọng để Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thảo luận, đánh giá hoạt động của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương trong công tác PCTN. Qua đó, Quốc hội có thể tiến hành chất vấn, giám sát tối cao tại kỳ họp, ra nghị quyết về những vấn đề có liên quan[8]. Thông qua việc xét báo cáo này, Quốc hội sẽ làm rõ trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành của các thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cáo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác PCTN, công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. Đồng thời, thông qua đó, Quốc hội cũng xem xét, đánh giá về đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước có đi vào cuộc sống và đem lại hiệu quả thiết thực hay không; kịp thời phát hiện những bất cập, hạn chế, vướng mắc để sửa đổi cho phù hợp.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát công tác phòng, chống tham nhũng thông qua thẩm tra, xét báo cáo của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, bất cập như: Việc thẩm tra mới chủ yếu dựa trên Báo cáo của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp mà chưa sử dụng hết các nguồn thông tin hiện có (trên các phương tiện truyền thông, qua khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân, qua các cuộc kiểm tra, giám sát của các cơ quan đảng…); thiếu các căn cứ pháp lý để đánh giá đúng thực trạng tình hình tham nhũng đang diễn ra cũng như dự báo sát diễn biến tình hình tham nhũng trong thời gian tiếp theo nên một số giải pháp kiến nghị còn chung chung, chưa thực sự có tính thuyết phục cao. Bên cạnh đó, việc thẩm tra, xét báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng còn gặp một số khó khăn như việc gửi tài liệu đôi khi còn chưa bảo đảm theo đúng quy định, dẫn đến thời gian dành cho việc nghiên cứu các báo cáo của các vị đại biểu Quốc hội còn chưa nhiều, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng ý kiến phát biểu. Việc phối hợp thẩm tra chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra; việc chia sẻ thông tin, phân tích số liệu chưa gắn kết chặt chẽ giữa chính sách về ngân sách và các chính sách chuyên ngành trong các ngành, lĩnh vực.
2.2. Giám sát công tác PCTN của cơ quan quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn, giải trình
Hoạt động chất vấn tại Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục được đổi mới qua từng kỳ họp, phiên họp, mang lại hiệu quả thiết thực, được các vị đại biểu Quốc hội, cử tri, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm và đánh giá cao. Với tinh thần dân chủ, công khai, xây dựng, trách nhiệm, thông qua việc tăng cường tranh luận, đối thoại, hoạt động chất vấn đã tạo điều kiện để các đại biểu Quốc hội thể hiện vai trò của mình, có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của bộ máy nhà nước và những người đứng đầu cơ quan nhà nước, thúc đẩy việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, chính sách pháp luật và nghị quyết của Quốc hội.
Hoạt động giải trình là phương thức để Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm đánh giá việc thực nhiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật, trong đó tập trung các giải pháp để giải quyết nhanh chóng những vấn đề phát sinh từ thực tiễn đời sống xã hội đòi hỏi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải sớm giải quyết. Đồng thời, thông qua phiên giải trình, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có thể đánh giá tính hiệu quả quy định của pháp luật đã được Quốc hội ban hành để có căn cứ kiến nghị, đề xuất xây dựng và hoàn thiện. Hiệu quả phiên giải trình của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động của các chủ thể tham giam thực hiện phiên giải trình.
Tại kỳ họp, Quốc hội đã tiến hành chất vấn về các nội dung liên quan đến công tác PCTN[9]. Tại các phiên chất vấn của Quốc hội đã có hàng trăm lượt đại biểu Quốc hội chất vấn và tranh luận. Mặc dù Quốc hội đã dành tương đối nhiều thời gian so với dung lượng thời gian kỳ họp (thường là 3- 3,5 ngày/ tổng số khoảng 20 – 22 ngày của mỗi kỳ họp) để tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn, nhưng vẫn còn nhiều đại biểu Quốc hội chất vấn mà chưa đủ thời gian để trả lời trực tiếp tại hội trường. Nhìn chung, các câu hỏi được đặt ra cơ bản đúng trọng tâm, ngắn gọn, rõ ràng và tích cực tranh luận để làm rõ thêm nội dung chất vấn; việc trả lời chất vấn cũng cơ bản đã bao quát, nhận định, đánh giá sát tình hình thực tiễn, nắm chắc vấn đề để trả lời ngắn gọn, cô đọng, đi trực tiếp vào nội dung chất vấn, cam kết khắc phục những hạn chế, bất cập để nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quyết tâm tạo sự chuyển biến trong thời gian tới. Việc trực tiếp trả lời chất vấn và tham gia báo cáo giải trình, làm rõ thêm của các thành viên Chính phủ, trưởng ngành đã góp phần làm sáng tỏ những nội dung liên quan đến công tác quản lý ngành, lĩnh vực phụ trách. Quốc hội đã ra nghị quyết về hoạt động chất vấn, làm căn cứ cho các cơ quan, tổ chức hữu quan triển khai thực hiện.
Các phiên giải trình của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong đó có nội dung trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng đã thu hút được đông đảo sự tham gia của đại biểu dân cử, đại diện các bộ, ngành, địa phương có liên quan. Nhìn chung, không khí thảo luận tại các phiên giải trình diễn ra sôi nổi, thẳng thắn, nhiều nội dung đi thẳng và đến cùng vấn đề đặt ra, có chất lượng, góp phần làm rõ những vấn đề mà đại biểu, dư luận xã hội quan tâm.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động chất vấn, giải trình còn một số tồn tại cần nghiên cứu hoàn thiện trong thời gian tới như: Thời gian dành cho hoạt động chất vấn chưa đảm bảo để tất cả các chất vấn của đại biểu Quốc hội đều được trả lời trực tiếp tại hội trường; vẫn còn hiện tượng đại biểu hỏi ngoài phạm vi chất vấn; câu hỏi còn trùng lặp về nội dung, không đi thẳng vào trọng tâm, thông tin đưa ra thiếu chính xác. Thành viên Chính phủ, trưởng ngành trả lời chỉ mới tập trung vào báo cáo thực trạng, chưa phân tích yếu tố chủ quan, chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân đối với những hạn chế, bất cập và các giải pháp cụ thể với kế hoạch, tiến độ rõ ràng nhằm khắc phục hạn chế, bất cập; có trường hợp trả lời biểu hiện né tránh trách nhiệm hoặc thanh minh, đổ lỗi cho khách quan; chưa định lượng được sự hài lòng của đại biểu Quốc hội, nhân dân đối với việc trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ, các Trưởng ngành. Việc không ban hành nghị quyết chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giải trình của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban dẫn tới thiếu cơ chế pháp lý để giám sát, đánh giá lại việc thực hiện các lời hứa, giải pháp của người được chất vấn, giải trình. Việc thực hiện các nghị quyết sau giám sát còn chưa đáp ứng được yêu cầu do chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan mà chỉ dừng lại ở trách nhiệm chính trị, chưa có biện pháp và chế tài xử lý phù hợp; việc theo dõi, đôn đốc thực hiện còn chưa thường xuyên, thống nhất và có hệ thống.
2.3. Giám sát công tác PCTN của cơ quan quyền lực nhà nước thông qua thông qua hoạt động giám sát chuyên đề
Hằng năm, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều ban hành chương trình giám sát trong đó có nội dung giám sát chuyên đề[10]. Từ năm 2018 đến nay, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành giám sát nhiều chuyên đề có liên quan đến công tác PCTN. Ủy ban tư pháp của Quốc hội đã tiến hành một số cuộc giám sát chuyên đề[11]. Kết quả của hoạt động giám sát, bên cạnh việc làm rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai sót, vướng mắc còn góp phần quan trọng vào việc hoạch định chính sách, hoàn thiện pháp luật về PCTN; đồng thời đã cung cấp những thông tin cần thiết để Quốc hội đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ quan hữu quan, Ủy ban Tư pháp tiến hành thẩm tra Báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng của Chính phủ; đồng thời, kết quả giám sát cũng làm cơ sở cho việc xem xét thông qua các dự án luật có liên quan.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát chuyên đề vẫn còn một số tồn tại hạn chế như: Một số chuyên đề giám sát có phạm vi khá rộng, có tính chuyên sâu cao, trong khi thời gian và nguồn lực thực hiện của các cơ quan của Quốc hội còn hạn chế; một số đại biểu được cử tham gia Đoàn giám sát có chuyên môn chưa phù hợp với nội dung của chuyên đề giám sát; chất lượng tham gia, góp ý kiến đánh giá, phản biện của một số thành viên Đoàn giám sát còn hạn chế. Một số đoàn công tác bố trí Trưởng đoàn không phải là thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội[12], chưa đúng theo quy định[13]. Thành viên Đoàn giám sát tham gia các hoạt động (dự họp, khảo sát, nghiên cứu thảo luận, cho ý kiến) có thời điểm chưa đầy đủ theo thành phần, chương trình, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát. Việc mời các đối tượng chịu sự tác động của chính sách tham gia ý kiến, làm rõ các vấn đề có liên quan chưa được thực hiện hiệu quả; việc đi thực tế hiện trường hoặc sử dụng hình ảnh trong giám sát còn nhiều hạn chế, ít được quan tâm. Việc các Đoàn giám sát không triển khai các hoạt động, nhất là hoạt động giám sát tại các địa phương ngay khi Quốc hội thông qua nghị quyết dẫn đến bị động, khó khăn trong việc tổ chức thực hiện, ảnh hưởng đến hoạt động điều hòa chung [14]. Việc triển khai hoạt động giám sát tại các địa phương còn có sự trùng lặp vào cùng một thời điểm; thời gian làm việc với các địa phương, cơ sở còn ít (trung bình ½ đến 01 ngày/địa phương). Hoạt động giám sát chuyên đề chủ yếu vẫn dựa trên việc xem xét báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát, mà thông tin từ các chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu, hoạt động độc lập còn chưa nhiều; việc cung cấp thông tin của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn chậm hoặc thông tin chưa được sử dụng hiệu quả. Một số cơ quan chịu sự giám sát chưa thực hiện nghiêm túc yêu cầu của Đoàn giám sát, việc gửi báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát còn chưa đúng thời hạn, chất lượng một số báo cáo còn chưa đạt yêu cầu. Chế độ chi tài chính cho hoạt động giám sát chuyên đề còn bất cập, hạn chế như: chế độ chi bồi dưỡng cho chuyên gia còn thấp, nhiều khoản mục chi của Đoàn chưa có trong quy định, một số định mức chi chưa phù hợp với thực tế.
2.4. Giám sát công tác PCTN của cơ quan quyền lực nhà nước thông qua thông qua hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực PCTN được thực hiện chủ yếu thông qua công tác giám sát việc chấp hành pháp luật trong ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự, Luật Phòng, chống tham nhũng và các luật có liên quan; khó khăn, vướng mắc trong áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức hữu quan; góp phần kịp thời tháo gỡ những khó khăn, hạn chế về cơ chế chính sách, pháp luật tạo điều kiện để các cơ quan này áp dụng, thực hiện thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, đây là phương thức giám sát mà Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội còn chưa làm được nhiều. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là các quy định của pháp luật về cơ chế giám sát văn bản còn chưa rõ, chưa cụ thể, nhất là trách nhiệm của các cơ quan tư pháp ở trung ương trong việc gửi văn bản đã ban hành cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; thiếu các quy định về trình tự, thủ tục, quy trình, phương thức, cách thức tiến hành giám sát văn bản…
Ngày 22/7/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH15 hướng dẫn việc tổ chức thực hiện hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Đây là lần đầu tiên Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành hướng dẫn, là cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, tạo sự chuyển biến thực chất và tích cực hơn nữa trong hoạt động này. Qua đó, giúp các cơ quan tiến hành giám sát bài bản hơn, theo trình tự, thủ tục giám sát, thời gian, cách thức tiến hành giám sát văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong tổ chức thực hiện. Đồng thời, ngày 20/12/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức Hội nghị triển khai Nghị quyết này để tiếp tục quán triệt đến các cơ quan giám sát, cơ quan chịu sự giám sát và cơ quan có liên quan trong việc triển khai thực hiện.
Căn cứ Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH15, một số cơ quan của Quốc hội đã chủ động ban hành kế hoạch giám sát, có công văn, đề cương, biểu mẫu gửi các cơ quan hữu quan đề nghị báo cáo việc ban hành văn bản quy phạm thuộc lĩnh vực phụ trách theo đúng quy định[15]. Trên cơ sở báo cáo của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội về kết quả giám sát văn bản quy phạm pháp luật năm 2022, Tổng Thư ký Quốc hội đã tổng hợp, xây dựng báo cáo chung để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại phiên họp tháng 4/2023 và trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5. Qua xem xét các báo cáo cho thấy, năm 2022 là năm đầu tiên Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội triển khai giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi lĩnh vực phụ trách theo quy định của Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH15, theo đó, kỳ giám sát này kéo dài thêm nửa năm (bắt đầu từ 01/7/2021 và kết thúc vào 31/12/2022). Việc giám sát được các cơ quan của Quốc hội tiến hành thông qua các hình thức như: nghiên cứu, xem xét, đánh giá đối với từng văn bản về thể thức văn bản, thẩm quyền ban hành văn bản, nội dung, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất… của văn bản; kết hợp hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật với hoạt động giám sát chuyên đề, tổ chức phiên giải trình và có đánh giá đối với các văn bản trong lĩnh vực được giám sát, giải trình.
2.5. Giám sát công tác PCTN của cơ quan quyền lực nhà nước thông qua thông qua giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là một kênh quan trọng, vừa góp phần bảo đảm thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, vừa là phương thức để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội phát hiện những hạn chế trong công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của cơ quan có thẩm quyền để quyết định tiến hành giám sát chuyên đề, chất vấn, giải trình, giám sát các vụ án cụ thể khi có khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo dài. Đồng thời, giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa cơ quan đại diện cao nhất với cử tri, nhân dân. Qua hoạt động giám sát này, Ủy ban tư pháp đã có nhiều kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các bộ, ngành khác có liên quan) trong việc khẩn trương trả lời đơn tố cáo của nhân dân; nếu có dấu hiệu tội phạm tham nhũng thì phải khẩn trương khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh. Qua đó, cũng đã kiến nghị một số trường hợp cần thiết xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng trong cơ quan mình.
3. Kết quả đạt được và một số hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân trong hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác phòng, chống tham nhũng
Có thể nhận thấy, qua hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tư pháp và Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội về công tác PCTN, việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng đã góp phần quan trọng để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tham nhũng. Nhiều vụ án tham nhũng qua hoạt động giám sát đã được yêu cầu các cơ quan tố tụng tiến hành xử lý nghiêm minh, tạo sự đồng thuận cao trong Quốc hội và cử tri cả nước. Tuy nhiên, công tác giám việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng vẫn còn nhiều hạn chế như rất ít phát hiện được những vấn đề quan trọng đặt ra trong thực tiễn, các đánh giá, kết luận, kiến nghị còn chung chung gây khó khăn cho việc thực hiện … Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hạn chế nói trên là:
– Về thẩm quyền giám sát: mặc dù Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội quy định về nhiệm vụ của từng chủ thể thực hiện giám sát nhưng không phân định được hiệu lực, hiệu quả giám sát giữa các chủ thể giám sát với nhau, ngay cả hiệu lực của hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực ở trung ương với cơ quan quyền lực ở địa phương; Ví dụ như quy định về cơ chế giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội với Ủy ban tư pháp trong giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng không có sự phân định nên trên thực tế, dù hoạt động giám sát đó có trên danh nghĩa là Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhưng thực chất vẫn chỉ là Ủy ban tư pháp thực hiện.
– Về phạm vi giám sát: Luật Hoạt động giám sát cũng không quy định về phạm vi giám sát của từng chủ thể nên đến nay còn có nhiều ý kiến khác nhau. Quốc hội, với trách nhiệm hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô thì chỉ nên giám sát đối với các cơ quan ở trung ương; cũng có quan điểm cho rằng, với thẩm quyền giám sát toàn bộ hoạt động của nhà nước thì Quốc hội giám sát đối với tất cả mọi hoạt động của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Do lúng túng về phạm vi giám sát nên trong thời gian qua, hoạt động chất vấn của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, hoạt động giải trình mới chỉ dừng lại ở mức độ yêu cầu người có thẩm quyền do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chất vấn hoặc giải trình; nhưng giám sát chuyên đề hoặc giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo lại chủ yếu được thực hiện ở địa phương, sau đó làm việc với cơ quan ở trung ương để đánh giá về những vấn đề đã giám sát trước khi ban hành báo cáo giám sát.
– Giám sát các vụ án tham nhũng cụ thể, hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, việc tiến hành giám sát các vụ án cụ thể là phù hợp, làm cơ sở, minh chứng xác thực cho việc đánh giá chất lượng, hiệu quả trong hoạt động PCTN; cũng có quan điểm cho rằng, Quốc hội giám sát các vụ án tham nhũng cụ thể là làm thay chức năng điều tra của cơ quan điều tra, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, chức năng giám đốc xét xử của Toà án. Hơn nữa, việc giám sát vụ án cụ thể có thể phải đi đến kết luận đúng sai thì khó tránh khỏi việc đánh giá chứng cứ trong vụ án. Mỗi quan điểm nêu trên đều có nhân tố hợp lý. Nếu cho phép giám sát vụ án cụ thể thì về thực tiễn, góp phần rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; qua đó không chỉ đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền mà còn là điều kiện để đánh giá tính phù hợp của hệ thống văn bản pháp luật. Còn nếu không cho phép giám sát các vụ án cụ thể, sẽ vừa bảo đảm được tính độc lập trong hoạt động xét xử của toà án, khẳng định được phán quyết của Toà án phải được tất cả cơ quan nhà nước, công dân tôn trọng và thực hiện, đồng thời cũng khẳng định quyết định của Hội đồng thẩm phán là quyết định cuối cùng, không ai có quyền kháng cáo, kháng nghị.
– Chưa có quy định cụ thể về hậu quả pháp lý của đối tượng chịu sự giám sát (nhất là các đối tượng chịu sự giám sát ở địa phương). Do đó, qua công tác giám sát, Quốc hội chỉ xem xét trách nhiệm của người đứng đầu do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn trong công tác quản lý, điều hành.
– Đại biểu Quốc hội – chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động giám sát còn thiếu kinh nghiệm, thực tiễn giám sát, những đại biểu kiêm nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu trong hoạt động này thì lại là những người đang giữ chức vụ trong ngành mà mình tiến hành giám sát nên khó khách quan trong đánh giá hiệu quả hoạt động của ngành mình.
– Nhân lực, nguồn lực cho hoạt động giám sát cũng còn hạn chế, Ủy ban Tư pháp được cơ cấu 09 đại biểu chuyên trách với bộ máy giúp việc gần 30 người nhưng phải phụ trách lĩnh vực rất rộng (công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp, phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, PCTN liên quan đến nhiều bộ, ngành mà tập trung vào Bộ Công an, Bộ Tư pháp tối cao, Bộ Quốc phòng, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân tối cao); trong đó, theo dõi công tác phòng, chống tham nhũng chỉ có 04 cán bộ thuộc Vụ Tư pháp. Do đó, trong giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, Quốc hội mới chủ yếu tiến hành giám sát trên cơ sở các báo cáo và một phần trên cơ sở tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
4. Quan điểm, giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội
4.1. Quan điểm
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung, trong đó có hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và đại biểu dân cử thông qua những định hướng đúng đắn để hoạt động giám sát của các cơ quan này thực sự phát huy được hiệu lực, hiệu quả, tạo chuyển biến thực chất trong thực tế.
Hai là, tiếp tục nâng cao nhận thức về chức năng giám sát của Quốc hội. Hoạt động giám sát cần xác định là cung cấp những thông tin thực tiễn trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật để làm cơ sở hoàn thiện thể chế, góp phần phát triển đất nước; do đó, các kiến nghị, đề xuất sau giám sát cần được nghiên cứu cụ thể, kịp thời, nhất là đối với các kiến nghị liên quan đến chính sách, pháp luật cần được xem xét thấu đáo để trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về giám sát; tăng cường tính đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả của các hình thức giám sát, tập trung giám sát những vấn đề lớn, bức xúc trong đời sống kinh tế – xã hội. Chú trọng và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, cả cơ quan giám sát lẫn cơ quan chịu sự giám sát. Đồng thời nâng cao chất lượng, nội dung, yêu cầu tại các nghị quyết, kết luận, kiến nghị sau giám sát; tăng cường giám sát việc thực hiện các nghị quyết, kết luận, kiến nghị.
Bốn là, bảo đảm đầy đủ nguồn lực cho hoạt động giám sát, cả về nhân lực, vật lực và tài lực, nhất là đội ngũ cán bộ, cơ sở dữ liệu giám sát. Phát huy mạnh mẽ vai trò của truyền thông trong toàn bộ quá trình giám sát và thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát, áp dụng có hiệu quả ứng dụng công nghệ số trong hoạt động giám sát.
Năm là, giám sát cần dựa trên tinh thần cộng đồng trách nhiệm, sẵn sàng hợp tác, phải có sự phối hợp chặt chẽ trong tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội. Yêu cầu khách quan của hoạt động giám sát là phải tăng cường và thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp như phối hợp giữa các chủ thể giám sát; kết hợp nhiều phương thức giám sát đối với một số nội dung; phối hợp giữa chủ thể giám sát với đối tượng chịu sự giám sát; phối hợp giữa Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội với Hội đồng nhân dân; phối hợp giữa các đơn vị phục vụ…
4.2. Giải pháp
– Giải pháp hoàn thiện pháp luật (Luật tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát, Luật PCTN, văn bản pháp luật khác có liên quan):
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân nhằm bảo đảm các cơ quan dân cử có thể thực hiện đúng thực quyền của mình trên thực tế như: Sửa đổi về cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm sửa đổi các quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và các quy định về điều kiện hoạt động của đại biểu để bảo đảm tính độc lập của đại biểu…
+ Ủy ban Tư pháp là cơ quan được giao giúp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và cũng là cơ quan có thẩm quyền trong thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý và giám sát việc chấp hành Luật Phòng, chống tham nhũng. Do đó, cần sửa đổi Luật PCTN, Luật Tổ chức Quốc hội, theo đó giao cho Ủy ban tư pháp làm đầu mối trong mọi loại giám sát về công tác PCTN, việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng vì thực chất, nếu Ủy ban Tư pháp chỉ giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng mà không theo dõi, giám sát công tác phòng ngừa tham nhũng của các bộ, ngành ở cả trung ương và địa phương thì rất khó phát hiện những sai phạm của các cơ quan này trong công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng và việc chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
+ Hoàn thiện cơ chế chung bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ giải quyết và trả lời các kiến nghị, đề nghị của Ủy ban Tư pháp, nhất là đề nghị giải quyết đơn tố cáo tham nhũng của công dân được Ủy ban tư pháp chuyển tới.
+ Hoàn thiện hơn các chế định pháp lý về: Phạm vi, đối tượng, nội dung, phương thức tiến hành giám sát, hậu quả pháp lý và trách nhiệm thực hiện kết luận giám sát.
– Giải pháp hoàn thiện và hình thức, phương thức giám sát và điều kiện bảo đảm
+ Tăng cường đồng bộ các hình thức giám sát (Đoàn giám sát, khảo sát, nghe báo cáo, giải trình, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo…). Việc giám sát cần tiến hành theo kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm.
+ Tăng cường các kênh, các hoạt động tiếp xúc với cử tri, sử dụng chuyên gia, tổ chức điều tra xã hội học …để phục vụ hoạt động giám sát.
+ Tăng cường tính công khai trong giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. Giám sát sẽ có hiệu quả nếu hoạt động này tạo được lòng tin của người dân; dựa vào sự ủng hộ của công luận, báo chí để tăng thêm sức mạnh của mình.
+ Cần quan tâm tập trung giám sát một số vụ việc cụ thể, nổi cộm hoặc kết quả xét xử của Tòa án gây bức xúc trong dư luận, xác định rõ trách nhiệm của những người có liên quan, từ đó tạo sức ép và làm động lực để các cơ quan hữu quan phải thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ của mình.
– Về giải pháp tổ chức thực hiện
+ Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần chủ động trong hoạt động giám sát. Quán triệt và triển khai có hiệu quả Kết luận số 843-KL/ĐĐQH15 ngày 03/8/2022 của Đảng đoàn Quốc hội về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của Quốc hội và Kế hoạch số 370/KH-UBTVQH15 để triển khai thực hiện Kết luận này.
+ Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội căn cứ điều kiện và tình hình thực tế, chủ động xây dựng và triển khai thực hiện chương trình giám sát của mình, báo cáo kết quả thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Chủ động theo dõi, đánh giá, bám sát tình hình để đề xuất tổ chức các phiên giải trình và các hoạt động giám sát khác phù hợp, nhằm tăng cường giám sát về kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, lĩnh vực ngân hàng; xem xét, làm rõ trách nhiệm, biện pháp xử lý đối với những vấn đề cấp bách nổi lên trong thực tiễn. Đổi mới phương thức tổ chức các phiên giải trình theo hướng tăng cường kết hợp giữa họp trực tiếp và trực tuyến, ban hành kết luận cụ thể, rõ ràng sau phiên giải trình và giám sát chặt chẽ việc thực hiện kết luận này.
+ Các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát bảo đảm chất lượng, khả thi, hiệu quả, tránh hình thức, phù hợp với khả năng, nguồn lực, nhất là việc thực hiện các chính sách, pháp luật ở địa phương. Chủ động phối hợp với các Đoàn giám sát của các cơ quan của Quốc hội, với Thường trực, các Ban của Hội đồng nhân dân nhằm tránh chồng chéo.
Các vị đại biểu Quốc hội cần chủ động đổi mới hoạt động giám sát của mình theo hướng tăng cường tính độc lập, hạn chế phụ thuộc vào chương trình giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội mà mình là thành viên.
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan ở trung ương và địa phương có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát; báo cáo và cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác những thông tin, tài liệu cần thiết có liên quan đến nội dung giám sát theo yêu cầu của cơ quan tiến hành giám sát. Các cơ quan chịu sự giám sát thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm túc những kiến nghị sau giám sát và báo cáo kết quả thực hiện đến Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội./.
TS. Hoàng Nam Hải
Vụ trưởng Vụ Tư pháp, Văn phòng Quốc hội
[1] Kỷ yếu hội thảo “Quá trình hình thành, phát triển và vai trò của Quốc hội trong sự nghiệp đổi mới”, Văn phòng Quốc hội Việt Nam (2001), Hà Nội, Trang 376.
[2] Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê (Chủ biên) (1995), Nhà Xuất bản Đà Nẵng-Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, Trang 389.
[3] Từ điển Luật học, Nguyễn Duy Lãm (Chủ biên) (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, Trang 174.
[4] Quốc hội khóa XIV – Thành tựu và dấu ấn nổi bật, 2021, tr223.
[5] Điều 17 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2015.
[6] Kết luận số 21-KL/TW ngày 12/5/2012 của Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
[7] Theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Phòng, chống tham nhũng
[8] Trong thời gian qua, ngoài Nghị quyết về kinh tế – xã hội thì Quốc hội còn ra các nghị quyết chuyên đề về công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật như Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 về tăng cường biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm.
[9] Năm 2017, Quốc hội tiến hành chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (trong đó có nội dung xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế); Năm 2020, Quốc hội tiến hành chất vấn trực tiếp về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội liên quan đến 20 lĩnh vực trong đó có lĩnh vực thanh tra (PCTN), Năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (trong đó có công tác PCTN)…
[10] Năm 2018: Quốc hội tiến hành giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2016”, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài giai đoạn 2011-2016”
Năm 2019: Quốc hội giám sát 02 chuyên đề: “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến hết năm 2018” và “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy giai đoạn 2014 – 2018”; Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát 02 chuyên đề: “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước giai đoạn 2013-2018” và “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018”
Năm 2020: Quốc hội đã tiến hành giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em”; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giám sát chuyên đề “Việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên”.
Năm 2022: Quốc hội giám sát tối cao chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành” (tại kỳ họp thứ 3, giao Ủy ban Kinh tế chủ trì); “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021” (tại kỳ họp thứ 4, giao Ủy ban Tài chính, Ngân sách chủ trì).
Tại phiên họp tháng 9/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát 02 chuyên đề về: “Việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo từ ngày 01/7/2016 đến ngày 01/7/2021” (giao Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội chủ trì) và “Việc thực hiện các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 – 2021” (giao Ủy ban Pháp luật chủ trì).
Năm 2023: Quốc hội giám sát tối cao chuyên đề “Việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19; việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng” (tại kỳ họp thứ 5, giao Ủy ban Tài chính, Ngân sách chủ trì); “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025, phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030” (tại kỳ họp thứ 6, giao Hội đồng Dân tộc chủ trì).
Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát chuyên đề “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông” (tại phiên họp tháng 8, giao Ủy ban Văn hóa, Giáo dục chủ trì); “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 – 2021” (tại phiên họp tháng 9, giao Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì).
[11] Từ năm 2007 đến nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban tư pháp đã tiến hành các cuộc giám sát chuyên đề: giám sát việc triển khai các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của cơ quan tiến hành tố tụng trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân; giám sát công tác PCTN….
[12] Chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước giai đoạn 2013-2018” và “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018”.
[13] Khoản 1 Điều 30 Quy chế“Tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội”.
[14] Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy giai đoạn 2014 – 2018.” được Quốc hội thông qua nghị quyết vào tháng 6/2018 ,tuy nhiên, đến tháng 2/2019, Đoàn mới triển khai các hoạt động giám sát tại địa phương, dẫn đến khó khăn trong tổ chức thực hiện khi cùng lúc phải tổ chức các Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tổng số đã có 02 Đoàn điều chỉnh thời gian làm việc tại 02 địa phương; phát sinh 05 địa phương đến làm việc so với kế hoạch ban đầu.
[15] Ví dụ như: Hội đồng Dân tộc; các Ủy ban: Pháp luật, Tư pháp, Xã hội, Đối ngoại…