1. Quan điểm về đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm PCTN ở Việt Nam
1.1. Nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng đòi hỏi nâng cao năng lực của mỗi tổ chức thành viên, thực hiện phối hợp có hiệu quả giữa các tổ chức với nhau và với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng là đòi hỏi trước mắt và lâu dài; bản thân mỗi tổ chức, cá nhân cần nhận thức rõ được vai trò của mình, những nhiệm vụ, quyền hạn mà mình có theo quy định của pháp luật để nắm rõ và thực hiện tốt các yêu cầu này. Mỗi tổ chức thực hiện phòng, chống tham nhũng với những chức năng, thẩm quyền khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm, địa vị pháp lý của từng tổ chức. Có những tổ chức chủ yếu thực hiện các hoạt động giám sát, phát hiện, có tổ chức thiên về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân,… Do vậy, nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí của mình trong công tác này chính là những tiền đề cơ bản, quan trọng để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước giao phó, qua đó góp phần vào cùng nỗ lực chung của cả hệ thống chính trị trong việc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, đòi hỏi mỗi tổ chức cần tự nâng cao năng lực phòng, chống tham nhũng của mình. Việc nâng cao năng lực của bản thân mỗi tổ chức điều đầu tiên là con người, cần nâng cao nhận thức về tác hại của tham nhũng, các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tham nhũng cho các thành viên của tổ chức; giáo dục ý thức đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực cho mỗi cá nhân, để họ thấy được trách nhiệm công dân của mình trong cuộc chiến chống tham nhũng này. Bên cạnh đó cũng cần hoàn thiện về cơ cấu của tổ chức, các điều kiện về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, các phương tiện hỗ trợ,… Đây là những yếu tố cơ bản, quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả các hoạt động nói chung và hiệu quả hoạt động trong công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng. Bên cạnh đó, kỹ năng hoạt động của tổ chức cũng rất quan trọng, có tác động quan trọng đến hiệu quả hoạt động. Điều này chỉ ra khuôn khổ, phương pháp triển khai các hoạt động, nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nâng cao vị trí, vai trò của mỗi tổ chức trong xã hội là điều kiện cơ bản, tiên quyết nhằm nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Để làm được điều này, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân trong xã hội cần thực hiện những hành động tích cực, trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình cũng như trong việc phối hợp thực hiện các nỗ lực chung.
1.2. Nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng đòi hỏi sự tích cực, chủ động từ phía nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế và thực hiện phối hợp có hiệu quả với các tổ chức xã hội, đoàn thể và người dân trong công tác này
Các cơ quan nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trung tâm trong công tác kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, phối hợp các nỗ lực của toàn xã hội, tạo dựng những cơ sở pháp lý và các điều kiện hỗ trợ khác nhằm triển khai thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng một cách đồng bộ, hiệu quả. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó vai trò của xã hội, của người dân được đặc biệt coi trọng, là một thành tố quan trọng của nhà nước pháp quyền.
Để nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng từ phía xã hội, đòi hỏi vai trò, sự chủ động, tích cực từ phía các cơ quan nhà nước, mà trước hết trong việc thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình, tạo phong trào, lôi cuốn, khích lệ người dân và các tổ chức xã hội tham. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước đã được quy định khá cụ thể tại Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó trọng tâm là công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Cơ chế phòng ngừa tham nhũng xác lập những khuôn khổ hoạt động trong đó có sự tham gia từ phía các tổ chức xã hội, là cơ sở cho các hoạt động giám sát từ phía xã họi, các tổ chức quần chúng nhân dân. Việc phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước, thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sát và thông qua việc tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng. Bên cạnh đó pháp luật cũng xác lập trách nhiệm và cơ chế phối hợp của các cơ quan nhà nước như thanh tra, kiểm toán, điều tra, viện kiểm sát, tòa án cùng các cơ quan hữu quan khác trong phòng, chống tham nhũng. Cơ chế phối hợp này bao gồm phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau và phối hợp với các tổ chức xã hội trong công tác này. Bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng của mình, các cơ quan nhà nước cũng cần có kế hoạch động viên người dân và toàn xã hội tham gia và thực hiện phối hợp các nỗ lực phòng, chống tham nhũng của toàn xã hội.
Nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực từ phía các cơ quan nhà nước trước hết đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý về vấn đề này. Đây là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan nhà nước, nhằm đưa ra những khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội và người dân. Vai trò, vị trí của các tổ chức xã hội trong công tác phòng, chống tham nhũng phụ thuộc rất lớn vào các quy định trong chính sách, pháp luật. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cần tạo những điều kiện để các tổ chức xã hội nâng cao nhận thức về tác hại của tham nhũng, những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về công tác này. Đây chính là những tiền đề cơ bản để các tổ chức xã hội hiểu rõ, đúng đắn và thực hiện có hiệu quả những biện pháp phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng đã được Đảng và Nhà nước đề ra.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng
2.1. Nhóm giải pháp về phía các cơ quan nhà nước
Các cơ quan nhà nước đóng vai trò quan trọng không chỉ trong việc nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng mà còn có trách nhiệm trong việc động viên toàn xã hội tham gia vào công tác này. Các cơ quan nhà nước tạo dựng các cơ sở về mặt pháp lý và điều kiện vật chất để góp phần nâng cao nhận thức và vai trò của xã hội, phối hợp các nỗ lực kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng của toàn xã hội, nhằm tạo ra sự đồng lòng, một sức mạnh tổng thể trong việc kiềm chế và từng bước ngăn ngừa tệ nạn này.
Để nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, về phía các cơ quan nhà nước cần thực hiện một số các giải pháp sau:
Thứ nhất: Hoàn thiện các quy định nhằm xóa bỏ mọi rào chắn, lực cản, khơi dậy tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng; Huy động, tiếp nhận, xử lý kịp thời các nguồn thông tin nhân dân cung cấp về tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai: Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, biện pháp thanh tra, kiểm tra theo tinh thần dựa vào nhân dân. Quy định rõ và thông báo rộng rãi địa chỉ thống nhất tiếp nhận ý kiến, đơn thư của nhân dân. Đó là đầu mối “giao dịch” với nhân dân của các cơ quan chức năng tiếp thu ý kiến của nhân dân, công khai các kết quả xử lý. Một trong những yêu cầu quan trọng là cần thể chế hóa và thực hiện nghiêm các quy định về trả lời các ý kiến, kiến nghị, phản ánh của nhân dân; thông báo kết quả giải quyết tố cáo kịp thời đến người tố cáo và những người có liên quan. Làm được như vậy sẽ tránh được tình trạng nhiều người dân không biết gửi các ý kiến của mình đến cơ quan nào, cấp nào thì đúng, nên nhiều khi gửi sai địa chỉ, vượt cấp, vòng vo, trùng lắp, đồng thời tạo dựng được lòng tin của nhân dân đối với công tác xử lý đơn thư, kiến nghị phản ánh và xử lý tố cáo hành vi tham nhũng. Quy định trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị về tính gương mẫu trong thực hiện báo cáo định kỳ công việc và tự phê bình trước cán bộ, đảng viên và nhận sự đóng góp ý kiến của tập thể cán bộ.
Thứ ba: Cần xây dựng các cơ chế tiếp nhận và xử lý tố cáo của xã hội phù hợp và hiệu quả; quy định cụ thể về việc xử lý tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ, tuy nhiên có cơ sở để xác minh nội dung tố cáo nhằm tránh việc bỏ lọt những thông tin có giá trị, là cơ sở cho việc phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng; có chế tài xử lý nghiêm minh những trường hợp lợi dụng quyền tố cáo để gây rối, vu khống cũng như xử lý thích đáng những trường hợp bao che, dung túng những kẻ có hành vi trù dập, trả thù người tố cáo.
Để nâng cao sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, cần thiết phải thiết lập các kênh để người tố cáo có thể liên hệ tố cáo kịp thời như tổ chức các văn phòng tiếp nhận tố cáo tham nhũng (tại các Ban chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng); các đường dây nóng; các hòm thư tay và thư điện tử;… Đây có thể coi là những “địa chỉ đỏ” để người dân và toàn xã hội liên hệ phản ánh, tố cáo các hành vi tham nhũng kịp thời, chính xác, tránh trường hợp đi lòng vòng. Có thể coi đây như “cơ chế một cửa” của việc xử lý, giải quyết các đơn thư, các nội dung tố cáo tham nhũng của công dân.
Bên cạnh đó cần có chế tài và xử lý nghiêm minh những người lợi dụng sự đồng thuận xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng nhằm gây rối nội bộ hoặc vì mục đích cá nhân mà bịa đặt với dụng ý xấu và can thiệp bao che cho kẻ có hành vi tham nhũng, tiêu cực.
Thứ tư: Thu hẹp phạm vi danh mục bí mật nhà nước; ban hành quy định cụ thể đối với một số lĩnh vực phải công khai và đảm bảo quyền được thông tin của công dân trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng; tăng cường tính chủ động của các tổ chức xã hội và công dân trong công tác này.
Thứ năm: Động viên và tạo điều kiện để các tổ chức đoàn thể xã hội và mọi công dân giám sát hoạt động của cơ quan công quyền; phát hiện các biểu hiện tham nhũng và tố giác hoặc báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét; hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng luật giám sát của nhân dân; Gắn kết hoạt động giám sát công tác phòng, chống tham nhũng với việc đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm huy động và bảo đảm sự tham gia có tổ chức của quần chúng nhân dân vào công tác này. Qua đó, hình thành cơ chế giám sát nội bộ, bao gồm cả việc thực hiện các quy tắc ứng xử trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc khu vực công để ngăn chặn phát sinh tham nhũng tại chỗ.
– Thứ sáu: Tạo điều kiện để cơ quan báo chí và phóng viên thực hiện tốt chức trách nghề nghiệp của mình trong việc tham gia đưa tin về các vụ việc tham nhũng và xây dựng quy chế cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức cho báo chí; nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, đảm bảo báo chí phản ánh khách quan, trung thực, kịp thời về vụ án, vụ việc tham nhũng, lãng phí và công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đồng thời khắc phục tình trạng thông tin một chiều, đưa tin có tính chất kích động, gây hoang mang hoặc có tính chất quy kết, định hướng dư luận về tội danh, mức án trước khi có phán xét của toà án. Nâng cao trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp của các nhà báo.
Nhà nước cần tạo ra cơ chế thông tin thuận lợi với xã hội để phát huy tính tích cực của xã hội trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chủ động thông tin, nhất là những vấn đề mà dư luận quan tâm có liên quan đến tham nhũng. Cần khẩn trương xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về phòng, chống tham nhũng theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng để chủ động thông tin và làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, thể chế về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng.
2.2. Nhóm giải pháp về phía xã hội
2.2.1. Mặt trận tổ quốc
Thứ nhất: Cần tăng cường chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc.
Trên thực tế, chức năng phản biện của Mặt trận Tổ quốc trong những năm qua chưa đạt hiệu quả cao, nội dung phản biện bị bó hẹp, không có nhiều các ý kiến trái chiều, chưa thể hiện được tiếng nói của người dân đối với các vấn đề lớn của xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, tham nhũng, tiêu cực thường được phát hiện bởi sự tố cáo của người dân và các cơ quan báo chí, vì vậy công tác phòng, chống tham nhũng sẽ không phát huy được hiệu quả nếu không tập hợp được tiếng nói của người dân. Sự phản biện xã hội không có nghĩa là đi ngược lại với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước mà thể hiện ở việc tạo sự đồng thuận trong dân, nói lên tiếng nói của người dân, đưa những vẫn đề bức xúc của xã hội để người dân thảo luận, góp ý. Bên cạnh đó, phải xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.
Thứ hai: Đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng; thực hiện tốt việc phối hợp các nỗ lực kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong các thành viên của Mặt trận và toàn xã hội.
Thứ ba: Mặt trận Tổ quốc cần quan tâm, thường xuyên trao đổi, gửi các ý kiến phản ánh, những yêu cầu, kiến nghị của nhân dân, của các tổ chức xã hội về phòng, chống tham nhũng cho Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng các cấp và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; phối hợp chặt chẽ trong xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo; bảo vệ, khen thưởng các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong phòng, chống tham nhũng. Cần xây dựng Quy chế phối hợp giữa các cấp ủy Đảng, Mặt trận tổ quốc với các cơ quan nhà nước và các đoàn thể trong công tác tuyên truyền, đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Thứ tư: Cần chủ động tham gia và phát huy vai trò trong các đoàn giám sát trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đây là phương thức quan trọng để thực hiện vai trò của Mặt trận và các tổ chức thành viên trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Bên cạnh đó cần thực hiện kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm sửa đổi, cho phép Mặt trận tổ quốc được quyền chủ động lập các đoàn giám sát khi phát hiện những vấn đề vi phạm pháp luật và có biểu hiện tham nhũng. Thực hiện tốt vai trò giám sát phòng, chống tham nhũng của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên được coi là hành động tích cực góp phần xây dựng Đảng, xây dựng đất nước, củng cố chính quyền.
2.2.2. Báo chí
Thứ nhất: Các cơ quan báo chí cần nâng cao tính khách quan, kịp thời, chủ động, độc lập trong việc giám sát, đưa tin về các vụ việc tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai: Kiện toàn đội ngũ những người làm báo, nêu cao trách nhiệm xã hội, ý thức công dân của người làm báo, tích cực tham gia công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tư tưởng chính trị vững vàng và đạo đức nghề báo, nhằm xây dựng những nhà báo tâm huyết, có bản lĩnh trong việc giám sát, phản ánh, đưa tin và tố cáo các hành vi tham nhũng.
Thứ ba: Xây dựng cơ chế khuyến khích, động viên những nhà báo dũng cảm, dám đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đưa tin khách quan, kịp thời về các vụ việc tham nhũng, lãng phí và công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước cũng như mỗi cơ quan báo chí cần có những cơ chế khen thưởng phù hợp, thích đáng cho các nhà báo, phóng viên của mình có thành tích trong công tác phòng, chống tham nhũng. Điều này thúc đẩy các nhà báo nỗ lực hơn trong thực hiện sứ mạng báo chí của mình, thực hiện có hiệu quả “quyền lực thứ tư” trong giám sát bộ máy nhà nước, lên án đấu tranh chống các hành vi tham nhũng, tiêu cực.
Thứ tư: Tăng cường sự phối hợp giữa báo chí với cơ quan chức năng trong kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Tăng khả năng tiếp cận thông tin về hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị là điều kiện quan trọng nhằm phát huy vai trò của báo chí trong kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Bên cạnh đó cũng đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện phối hợp trong việc cung cấp thông tin cho báo chí. Đây là điều kiện để hạn chế tình trạng đưa tin không chính xác, một chiều làm dư luận hiểu lầm, hiểu sai về các vụ việc được xử lý, giải quyết.
2.2.3. Doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề
Thứ nhất: Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp cần tổ chức tuyên truyền các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp. Tổ chức các lớp tập huấn, các buổi nói chuyện định kỳ, theo chuyên đề nhằm cập nhật những chủ trương, chính sách, pháp luật và tình hình kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũngcủa các cơ quan nhà nước và toàn xã hội cho người lao động trong doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện quy chế dân chủ và quyền giám sát của người lao động, góp phần xây dựng môi trường làm việc, kinh doanh lành mạnh, hạn chế các tham nhũng, tiêu cực trong doanh nghiệp.
Thứ hai: Xây dựng cơ chế phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phát hiện, tố cáo và xử lý các hành vi tham nhũng.
2.2.4. Ban thanh tra nhân dân
Thứ nhất: Củng cố về tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban thanh tra nhân dân. Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các Ban thanh tra nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng nói chung và đặc biệt là trong kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, cần nâng cao năng lực cho các Ban thanh tra nhân dân, trước hết là tổ chức các lớp tập huấn cho các Ban thanh tra nhân dân về tác hại của tham nhũng, những quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là vai trò của Ban thanh tra nhân dân trong hoạt động này. Cần kết hợp chặt chẽ, đúng đắn việc thực hiện các Quy chế dân chủ với việc phát động toàn dân tham gia hỗ trợ công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra của các cơ quan chức năng, không lợi dụng việc giám sát để kích động gây mâu thuẫn làm phương hại đến sự đoàn kết và lãnh đạo của Đảng, sự quản lý và điều hành của chính quyền.
Thứ hai: Tăng cường công tác tuyên truyền, tổ chức tập huấn nghiệp vụ nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của Ban thanh tra nhân dân. Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân thực chất là hoạt động giám sát của nhân dân, thể hiện quyền lực của nhân dân trong việc giám sát mọi hoạt động của nhà nước. Tinh thần hoạt động này là mang tính nhân dân, thay mặt nhân dân thể hiện quyền làm chủ và phải hoạt động hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế không ít Ban thanh tra nhân dân được lập ra hoạt động còn mờ nhạt, nhiều nơi còn chờ kinh phí để hoạt động, nhiều Ban thanh tra nhân dân chưa thực sự phát huy vai trò giám sát, kiểm tra, hoặc còn tâm lý e ngại, sợ va chạm, chưa mạnh dạn đề xuất, kiến nghị xử lý khi phát hiện các sai phạm.
Thứ ba: Các Ban thanh tra nhân dân cần nâng cao tính chủ động trong thực hiện giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng của các cơ quan nhà nước nhằm phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những hành vi tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
2.2.5. Công dân
Thứ nhất: Mỗi cá nhân cần nâng cao ý thức trách nhiệm công dân của mình, tăng cường sự chủ động giám sát đối với các hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là ở chính quyền cơ sở, thông qua việc thực hiện tốt các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.
Thứ hai: Tích cực, chủ động nâng cao nhận thức của công dân về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng; khuyến khích người dân tham gia kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng tại các cộng đồng dân cư, tham gia có hiệu quả vào các tổ chức xã hội, các tổ chức đoàn thể ở cơ sở trong công tác kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng./.
ThS. Lê Đức Trung
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra