Hoạt động thanh tra được xác định là một khâu quan trọng trong công tác quản lý nhà nước. Mục đích của hoạt động thanh tra đã được xác định rõ trong Luật Thanh tra năm 2010 bao gồm:
– Phát hiện và kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý;
– Phòng ngừa phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật;
– Phát huy nhân tố tích cực;
– Giúp cho các tổ chức, đơn vị thực hiện theo đúng pháp luật trong hoạt động của mình.
Đây là những mục tiêu hết sức có ý nghĩa góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước. Để đạt được những mục tiêu này, hoạt động thanh tra phải được thực hiện trên những nguyên tắc nhất định và theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ với một đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra tinh thông nghề nghiệp với tinh thần trách nhiệm cao. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn thì với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác thanh tra, đặc biệt là qua lời dạy của Hồ Chủ tịch, coi “thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”, thì hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra phụ thuộc rất nhiều vào “trên”, tức là các cơ quan lãnh đạo, quản lý, những người đứng đầu các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy mà trong tất cả các văn bản pháp luật cao nhất quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra từ trước đến nay, kể từ Pháp lệnh thanh tra năm 1990 đến nay, đều xác định quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng các ngành các cấp trong công tác thanh tra. Coi đó như là điều kiện quan trọng bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra.
Điều 8 Luật Thanh tra năm 2010 quy định về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước như sau:
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, xử lý kịp thời kết luận, kiến nghị thanh tra và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình.
Quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước đối với hoạt động thanh tra là khá toàn diện cả về tổ chức và hoạt động thanh tra: từ việc xây dựng định hướng chương trình, phê duyệt kế hoạch đến việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch thanh tra; việc ban hành các quyết định thanh tra; tổ chức chỉ đạo cuộc thanh tra, xử lý kịp thời kết luận, kiến nghị về thanh tra. Có thể thấy mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra đều có ảnh hưởng của người đứng đầu cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong việc thực hiện các kết luận thanh tra. Đây cũng là điểm khó khăn nhất trên thực tiễn hoạt động thanh tra mà bài viết này bàn đến.
I. Bản chất của Kết luận thanh tra và kiến nghị thanh tra
Trong hoạt động thanh tra thì sản phẩm cuối cùng của nó chính là các Kết luận thanh tra. Trong các văn bản pháp luật quy định về thanh tra từ trước đến nay không thấy đưa ra định nghĩa hay khái niệm về Kết luận thanh tra. Bản thân khái niệm này cũng được hiểu với phạm vi khác nhau có thể đơn giản chỉ hiểu theo nội dung của nó hoặc bao gồm cả nội dung và tính chất của nó. Nói chung, cho đến hiện nay có thể hiểu Kết luận thanh tra là một loại văn bản hành chính do cơ quan có thẩm quyền ban hành trong đó thể hiện sự đánh giá chính thức của cơ quan tổ chức đã tiến hành thanh tra về việc chấp hành chính sách pháp luật của tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra với những nội dung đã được ghi trong quyết định thanh tra và những biện pháp xử lý đối với các vi phạm hoặc những kiến nghị khác.
Điều 50 Luật Thanh tra năm 2010 quy định Kết luận thanh tra hành chính bao gồm các nội dung sau đây:
a) Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra;
b) Kết luận về nội dung thanh tra;
c) Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật;
d) Biện pháp xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị biện pháp xử lý.
Có một vấn đề cần phải nói thêm rằng đã có sự không rõ ràng trong quy định của pháp luật về hai khái niệm “kiến nghị” và “kết luận thanh tra”. Đây là hai nội dung hay là một nội dung? Cần phân biệt rằng xét về mặt nội dung thì rõ ràng kết luận và kiến nghị là hai nội dung khác nhau và điều này được phân biệt trong điểm b và điểm d Điều 50 nêu trên. Tuy nhiên cả hai nội dung này đều nằm trong một văn bản, đó là Kết luận thanh tra. Từ đó việc thực hiện Kết luận thanh tra thực chất chỉ là việc thực hiện các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị biện pháp xử lý tại điểm d mà thôi chứ không có việc thực hiện kết luận về nội dung thanh tra nói đến tại điểm b. Tóm lại, kết luận thanh tra và kiến nghị xử lý là hai nội dung trong cùng văn bản là Kết luận thanh tra và phần phải thực hiện là phần kiến nghị được nêu ra trong văn bản đó.
Việc thực hiện các Kết luận thanh tra luôn được coi là khâu khó khăn nhất trong giai đoạn được gọi là sau thanh tra. Có lẽ vì thế mà hiện nay chúng ta đang dự kiến ban hành một văn bản ở tầm Nghị định chuyên để xử lý vấn đề này cũng như về mặt tổ chức, ở Thanh tra Chính phủ đã có thêm một đơn vị phụ trách về vấn đề này. Một số tỉnh cũng có cách tổ chức tương tự. Mặc dù vậy thì vấn đề thực hiện các Kết luận thanh tra vẫn là khâu khó khăn nhất. Vậy trách nhiệm của hiện trạng này thuộc về ai? Trước hết, chúng ta hình dung về những nội dung của các biện pháp xử lý hoặc kiến nghị trong kết luận thanh tra được quy định tại điều 50 của Luật Thanh tra.
Cuộc thanh tra được tiến hành trên cơ sở quyết định thanh tra. Theo quy định của pháp luật thì quyết định thanh tra có thể đươc ký bởi Thủ trưởng cơ quan thanh tra hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Chẳng hạn, cuộc thanh tra ở tỉnh có thể do Chánh thanh tra tỉnh hoặc Chủ tich Ủy ban nhân dân tỉnh ký quyết định. Luật cũng quy định người ký Kết luận thanh tra chính là người đã ra quyết định thanh tra. Chính vì vậy mà Điều 50 khi quy định về vấn đề xử lý tại điểm d thì có đưa ra hai trường hợp: hoặc là biện pháp xử lý hoặc là kiến nghị biện pháp xử lý. Điều này sẽ thích hợp với hai khả năng: nếu Thủ trưởng cơ quan quản lý là người ký Kết luận thanh tra thì trong Kết luận này có thể đưa ra ngay biện pháp xử lý, đây là điều nằm trong phạm vi quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan quản lý. Tuy nhiên, nếu người ký Kết luận thanh tra là Chánh thanh tra thì việc đưa ra biện pháp xử lý là vượt khỏi thẩm quyền của họ nên chỉ có thể đưa ra kiến nghị biện pháp xử lý mà thôi.
Về nội dung của các biện pháp xử lý được quyết định bởi thủ trưởng cơ quan quản lý hoặc được kiến nghị bởi người đứng đầu cơ quan thanh tra đã được xác định khá rõ trong nội dung Kết luận thanh tra quy định tại Điều 50 của Luật như sau:
– Xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý sai phạm về kinh tế; xử lý sai phạm về kinh tế thường liên quan đến việc thu hồi tiền bạc, tài sản bị thất thoát hoặc đã bị sử dụng trái phép, sai mục đích.
– Xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật; vấn đề này liên quan đến pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức với những hình thức kỷ luật đã được quy định.
– Áp dụng, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật; nội dung này thường là các kiến nghị sửa đổi các quy định trong các văn bản pháp luật khi cho rằng quy định này là không phù hợp hoặc không có tính khả thi. Đôi khi nội dung này cũng có thể chỉ là những kiến nghị về việc điều chỉnh các biện pháp quản lý cho phù hợp.
Có thể thấy việc thực hiện các biện pháp xử lý hoặc các kiến nghị trong Kết luận thanh tra là rất đa dạng. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng bất luận trong trường hợp nào đi chăng nữa thì việc thực hiện này cũng liên quan đến nhiều đối tượng và việc thực hiện nó, đặc biệt là về những biện pháp xử lý vi phạm là hết sức khó khăn.
II. Trách nhiệm thực hiện Kết luận thanh tra
Khác với các bản án được tuyên bởi tòa án luôn có hiệu lực của một phán quyết buộc phải thi hành và sự thi hành đó được đảm bảo bởi hệ thống cơ quan chuyên trách với các quyền hạn khá rõ ràng, đầy đủ, tính chất buộc phải thực hiện của các Kết luận thanh tra vẫn còn là vấn đề tranh luận và nhất là trách nhiệm thực hiện này không được giao cho một cơ quan, tổ chức nào cụ thể. Nghị định số 86 đã đưa ra khá nhiều đối tượng khác nhau liên quan đến việc thực hiện Kết luận thanh tra.
Điều 53 của Nghị định quy định về trách nhiệm của đối tượng thanh tra:
1. Đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ, trách nhiệm của mình được ghi trong kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra:
a) Trong phạm vi thẩm quyền xử lý kịp thời các vi phạm về kinh tế, các cá nhân, cơ quan, đơn vị có hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp khắc phục sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, sửa đổi các quy định không phù hợp;
b) Yêu cầu cơ quan, đơn vị cấp dưới thuộc thẩm quyền quản lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm về kinh tế, các cá nhân, cơ quan, đơn vị có hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp khắc phục sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật.
2. Đối tượng thanh tra có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra với cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan nhà nước đã có kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện đó.
3. Trường hợp đối tượng thanh tra không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 54 quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra:
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải áp dụng các biện pháp để thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ, trách nhiệm của mình được ghi trong kết luận, quyết định xử lý về thanh tra:
a) Trong phạm vi thẩm quyền xử lý kịp thời các vi phạm về kinh tế, các cá nhân, cơ quan, đơn vị có hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp khắc phục sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, sửa đổi các quy định không phù hợp;
b) Yêu cầu cơ quan, đơn vị cấp dưới thuộc thẩm quyền quản lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm về kinh tế, các cá nhân, cơ quan, đơn vị có hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp khắc phục sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra với cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan nhà nước đã có kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện đó.
3. Trường hợp cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 55 quy định về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra:
1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra có trách nhiệm chỉ đạo, yêu cầu đối tượng thanh tra thực hiện nghiêm chỉnh kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra.
2. Trong trường hợp đối tượng thanh tra không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời thì Thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với các hành vi vi phạm.
Điều 56 quy định về trách nhiệm của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra:
1. Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra của mình, của Thủ tướng Chính phủ.
2. Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra của mình, của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.
3. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra của mình.
4. Cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành tiến hành kiểm tra trực tiếp việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Điều 57 quy định về theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra:
1. Sau khi có kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra, cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan báo cáo kết quả thực hiện những nội dung thuộc phạm vi, trách nhiệm của mình ghi trong kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra.
2. Trong trường hợp phát hiện đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý đối với hành vi vi phạm.
3. Trường hợp phát hiện kết luận thanh tra có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp xem xét, quyết định.
Có thể thấy pháp luật đã “điểm danh” không thiếu đối tượng nào liên quan đến việc thực hiện Kết luận thanh tra. Mặc dù vậy, tất cả những quy định này hầu như chỉ mang tính “nhắc nhở” chứ không thấy có các biện pháp có tính chất cưỡng chế, buộc phải thực hiện. Cũng có thể thấy rằng đa số những người có trách nhiệm liên quan đến việc thực hiện kiến nghị thanh tra là thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trách nhiệm quan trọng trước hết thuộc về Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp với cơ quan thanh tra đã thực hiện cuộc thanh tra đó.
III. Trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện Kết luận thanh tra
Điều 40 Luật Thanh tra quy định về trách nhiệm xử lý và chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra như sau:
1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết luận thanh tra hoặc nhận được kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra:
a) Xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý sai phạm về kinh tế;
b) Xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật;
c) Áp dụng, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật;
d) Xử lý vấn đề khác thuộc thẩm quyền trong kết luận thanh tra.
2. Người có trách nhiệm xử lý kết luận thanh tra mà không xử lý hoặc xử lý không đầy đủ thì bị xem xét xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Như vậy, khác với những đối tượng khác có trách nhiệm thực hiện Kết luận thanh tra với những mức độ liên quan khác nhau, Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp với cơ quan thanh tra đã có kết luận có thẩm quyền và trách nhiệm tổ chức chỉ đạo việc thực hiện Kết luận thanh tra với các tình huống đã được tiên liệu tại Điều 40 của Luật Thanh tra. Việc thực hiện trách nhiệm này hoàn toàn nằm trong khả năng của Thủ trưởng cơ quan quản lý. Điều này được giải thích bởi sự phân cấp trong hoạt động thanh tra, nhất là trong thanh tra hành chính. Các cơ quan thanh tra thường có đối tượng và phạm vi thanh tra nằm trong phạm vi quản lý nhà nước của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp, chẳng hạn, đối tượng của thanh tra tỉnh là các sở ban ngành thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh. Theo nguyên tắc quản lý hành chính thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân là cấp trên trực tiếp nên hoàn toàn có đủ thẩm quyền để sử dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện các kiến nghị thanh tra. Tuy nhiên không phải lúc nào đối tượng hoặc cơ quan có trách nhiệm cũng dễ dàng chấp nhận thực hiện các kiến nghị, yêu cầu. Họ thường đưa ra các lý do khác nhau để trì hoãn việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị trong kết luận thanh tra. Trong khi đó pháp luật chưa thể đưa ra những chế tài thích hợp và đủ mạnh để buộc họ phải thực hiện. Tất cả chỉ dừng lại ở việc quy định họ phải “chịu trách nhiệm” một cách chung chung mà thôi. Thêm vào đó, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước với trách nhiệm đứng đầu một địa phương hay đơn vị còn có rất nhiều mối quan tâm khác nữa. Cho nên đôi khi họ cũng khó có thể theo dõi và đôn đốc các cơ quan, tổ chức thực hiện các yêu cầu kiến nghị của mình và với họ pháp luật cũng lại chỉ quy định họ có thể bị “xem xét trách nhiệm theo quy định của pháp luật” mà thôi.
Lược qua các quy định liên quan đến trách nhiệm thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra có thể thấy hai vấn đề:
– Việc thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra được quy định là trách nhiệm của quá nhiều chủ thế, hệ quả là rất khó xác định trách nhiệm chính thuộc về ai;
– Khi quy định trách nhiệm thực hiện kết luận, kiến nghị về thanh tra, pháp luật thực ra cũng không xác định được cụ thể các đối tượng sẽ chịu hậu quả pháp lý như thế nào nếu không thực hiện trách nhiệm của mình.
Hiện nay, một Nghị định riêng về vấn đề thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra đang chuẩn bị tích cực để ban hành. Hy vọng nó sẽ khắc phục được phần nào những vướng mắc, khó khăn để hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra được nâng cao hơn nữa.
Ts. Đinh Văn Minh
Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra