Bán hàng đa cấp là một phương thức bán hàng phổ biến, được pháp luật quốc tế và Việt Nam thừa nhận. Khoản 1, Điều 3, Nghị định 40/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp quy định: “Kinh doanh theo phương thức đa cấp là hoạt động kinh doanh sử dụng mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh, trong đó, người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của mình và của những người khác trong mạng lưới”.
Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có 13 doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức đa cấp đã được xác nhận đăng ký hoạt động với gần 12.000 người tham gia, lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là mặt hàng mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, đồ gia dụng…, doanh thu bán hàng theo phương thức đa cấp trên địa bàn tỉnh năm 2022 đạt hơn 244 tỉ đồng.
Thời gian qua, Sở Công thương đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số 29/2018/QĐ-UBND ngày 27/7/2018 ban hành Quy chế phối hợp quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp trên địa bàn Hà Tĩnh; Kế hoạch số 193/KH-UBND ngày 07/6/2021 thực hiện đề án nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, giai đoạn 2021-2025 và tham mưu, ban hành nhiều hoạt động tuyên truyền, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn. Qua đó, các sở, ngành, địa phương đã chủ động triển khai phối hợp thực hiện công tác quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp trên địa bàn tỉnh.
Nhìn chung, các doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh đa cấp cơ bản đã chấp hành các quy định của pháp luật trong kinh doanh theo phương thức đa cấp như: Thực hiện công tác lưu trữ tài liệu, hồ sơ pháp lý theo quy định, chế độ báo cáo định kỳ, ký hợp đồng bán hàng đa cấp, công bố và cập nhật danh sách đào tạo viên trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp, hệ thống công nghệ thông tin quản lý mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp; có hệ thống thông tin liên lạc để tiếp nhận giải quyết thắc mắc, khiếu nại của người tham gia bán hàng đa cấp, trang thông tin điện tử theo quy định, chi trả chính sách hoa hồng, tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác cho những người đã ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp. Các doanh nghiệp cũng duy trì người đại diện tại địa phương, các sản phẩm hàng hoá về cơ bản đều có bản tự công bố sản phẩm hoặc có giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm của cơ quan có thẩm quyền; hàng hoá nhập khẩu được dán nhãn phụ trên sản phẩm; một số doanh nghiệp quan tâm đầu tư nhãn hiệu, bao bì có tính thẩm mỹ và dễ dàng nhận biết thương hiệu, hướng dẫn đầy đủ thông tin ngay trên bao bì sản phẩm.
Bên cạnh những kết quả đó, công tác quản lý hoạt động kinh doanh theo hình thức đa cấp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc như: Văn bản quy phạm pháp luật quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp còn có bất cập, chưa có quy định cụ thể về: Trách nhiệm và năng lực của người đại diện tại địa phương, yêu cầu về nội dung báo cáo, thời gian thực hiện các việc ký hợp đồng, đào tạo, cam kết, cấp thẻ; sự phát triển của kinh tế số nói chung và cách mạng công nghiệp 4.0 nói riêng đang tạo ra nhiều hình thức kinh doanh mới, khiến các cơ quan quản lý khó khăn trong kiểm soát, trong khi các khuôn khổ pháp lý, văn bản pháp luật thường không kịp thời được điều chỉnh.
Bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh hiện đại, mang lại hiệu quả cao ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, khi triển khai tại Việt Nam, cũng là mô hình kinh doanh dễ bị lợi dụng, biến tướng bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, đánh vào lòng tham và sự thiếu hiểu biết để lôi kéo, dụ dỗ người dân tham gia vào các hoạt động đa cấp trái phép nhằm mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp có nhiều biểu hiện biến tướng phức tạp, cũng đặt ra thách thức không nhỏ trong việc kiểm tra, xử lý. Bên cạnh đó, do đặc thù của loại kinh doanh này không có địa điểm kinh doanh cố định; các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp hầu hết không có trụ sở, văn phòng đại diện nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý. Chế tài xử lý đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh theo phương thức đa cấp không phép chưa đủ mạnh nên vẫn còn tình trạng các tổ chức, cá nhân tìm cách lách luật và bất chấp quy định pháp luật để kiếm lời bất chính.
Chưa kể, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm ở các địa phương được triển khai, nhưng vẫn còn ít, chưa bao quát toàn bộ các địa bàn của từng địa phương. Việc theo dõi, thu thập thông tin, tài liệu để xử lý các đối tượng này cũng gặp nhiều khó khăn. Người tham gia bán hàng đa cấp hoạt động truyền miệng hoặc thông qua các hội nhóm qua mạng xã hội nên việc tiếp cận phát hiện vi phạm, thu thập thông tin, chứng cứ để xử lý rất hạn chế…
Nhằm tận dụng tiềm năng, duy trì các kết quả đã đạt được, đồng thời xử lý những vấn đề do yêu cầu thực tế đặt ra đối với kinh doanh bán hàng đa cấp, thời gian tới, cần tập trung thực hiện các giải pháp chủ yếu như:
Tiếp tục rà soát kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp phù hợp với yêu cầu thực tế và sự phát triển của ngành.
Nâng cao toàn diện nhận thức của cộng đồng về pháp luật kinh doanh theo phương thức đa cấp và các hình thức lợi dụng bán hàng đa cấp kinh doanh trái phép, hướng đến một số đối tượng người dân như người cao tuổi, sinh viên, phụ nữ. Khẳng định hoạt động kinh doanh đa cấp không phép, đa cấp trá hình dưới hình thức đầu tư tài chính, tiền ảo… là hành vi vi phạm pháp luật có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, đặc biệt công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm ở các địa phương cần được triển khai đồng bộ và bao quát toàn bộ trên mỗi địa bàn của từng địa phương.
Đẩy mạnh và hướng đến tối đa hóa ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp nhằm tiết kiệm thời gian và nguồn lực cho cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp chân chính cần chủ động công tác tuyên truyền và phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng để tuyên truyền cho người tham gia và người tiêu dùng phân biệt rõ các quy định pháp luật và các mô hình biểu hiện bất chính. Xây dựng kế hoạch phân phối và đào tạo người tham gia một cách chuyên nghiệp và có biện pháp triển khai giám sát chặt chẽ. Đầu tư xây dựng hệ thống cảnh báo để kịp thời thông tin và phát hiện các trường hợp sai phạm, các cá nhân không tuân thủ đúng nguyên tắc trong kinh doanh bán hàng đa cấp gây ảnh hưởng đến bản chất và giá trị của ngành bán hàng đa cấp. Từ đó, kiến nghị và phối hợp với cơ quan chức năng xem xét xử lý đảm bảo hành lang pháp lý minh bạch, nghiêm túc.
Đối với người tham gia vào hình thức kinh doanh đa cấp cần tìm hiểu về doanh nghiệp đa cấp trước khi tham gia trên các tiêu chí: Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động; lịch sử hình thành và hoạt động đa cấp của doanh nghiệp; các phương thức bán hàng của doanh nghiệp. Đặc biệt, người tham gia cũng có quyền yêu cầu doanh nghiệp cung cấp tài liệu chứng từ chứng minh nguồn gốc, chỉ tiêu chất lượng của hàng hóa. Tìm hiểu kỹ về chương trình trả thưởng, hoa hồng của doanh nghiệp. Lợi ích của người tham gia chỉ có được khi bán hàng hóa, không phải từ việc lôi kéo, dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới đa cấp.
(Nguồn; ThanhtraVietNam)
Tại Kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết số 74/2022/QH15 ngày 15/11/2022 về đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên cơ sở báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016 – 2021. Theo đó, Quốc hội đã đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016 – 2021 đã đạt được những kết quả rất quan trọng, tích cực, song hành với kết quả to lớn của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, tài chính, ngân sách, huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, bảo đảm quốc phòng – an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế; việc chấp hành pháp luật còn chưa nghiêm; trong một số trường hợp thất thoát, lãng phí là rất lớn, nghiêm trọng. Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh nguyên nhân do một số quy định pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển thì nguyên nhân chủ yếu là việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Để tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Chính phủ ban hành Nghị quyết thực hiện Nghị quyết số 74/2022/QH15.
Chính phủ đề ra các nhiệm vụ, giải pháp về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Trong đó, yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại từng cơ quan, tổ chức, cá nhân, cả khu vực công cũng như khu vực tư để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thực sự trở thành văn hóa ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Các bộ, ngành, địa phương tăng cường, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước để phát triển nhanh và bền vững. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án liên quan đến việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Xử lý nghiêm minh, kịp thời trách nhiệm các tổ chức, cá nhân để xảy ra vi phạm trong công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Từ năm 2023, triển khai trong toàn quốc cuộc vận động về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tham mưu giúp Chính phủ tổ chức phong trào thi đua về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong phong trào thi đua đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng ở mọi cấp, mọi ngành và trong nhân dân với chủ đề, nội dung, hình thức thiết thực, hiệu quả. Kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong thực hiện tốt công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tham mưu giúp Chính phủ đổi mới việc xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện và báo cáo việc thực hiện Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 5 năm và hằng năm, theo hướng vừa đảm bảo tính tổng thể, toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, có chủ đề từng năm.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến thực hành tiết kiệm, chống lãng phí bảo đảm đồng bộ, thống nhất và phù hợp yêu cầu thực tiễn. Từ năm 2023, thường xuyên đánh giá hiệu quả và chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh các bất cập, mâu thuẫn nhằm hạn chế thất thoát, lãng phí các nguồn lực. Chú trọng xây dựng chính sách quốc gia về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong từng giai đoạn đối với một số lĩnh vực then chốt như tiết kiệm năng lượng, quản lý, khai thác, sử dụng đất, tài nguyên, khoáng sản.
Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương nghiêm túc chấn chỉnh, rút kinh nghiệm và khẩn trương có giải pháp đồng bộ để khắc phục tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra trong Báo cáo kết quả giám sát số 330/BC-ĐGS ngày 11/10/2022 của Đoàn giám sát Quốc hội. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, cá thể hóa trách nhiệm; bảo đảm tính công khai, minh bạch; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tập trung cao độ chỉ đạo để thực hiện tốt công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật tránh thất thoát, lãng phí. Tập trung nghiên cứu kỹ các giải pháp, đề xuất, kiến nghị nêu trong Báo cáo của Đoàn giám sát Quốc hội để thực hiện nghiêm các nhiệm trọng tâm. Đồng thời, cũng tại Nghị quyết này, Chính phủ yêu cầu 26 nhiệm vụ cụ thể, trọng tâm giao cho các bộ, ngành, địa phương khẩn trương, triển khai thực hiện.
(Nguồn: ThanhtraVietNam)
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành công văn 2635/VPCP-V.I ngày 17/4/2023 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 19/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ năm 2022.

Theo đó, xét Báo cáo số 60/BC-VPTT ngày 05/4/2023 của Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia về kết quả thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 19/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng thuộc nhóm hàng dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền trong năm 2022, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang, Trưởng Ban Chỉ đạo 389 quốc gia có ý kiến chỉ đạo như sau:
Cơ bản đồng ý các kiến nghị của Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia tại Văn bản số 60/BC-VPTT ngày 05/4/2023. Các bộ, ngành, địa phương căn cứ nhiệm vụ được giao tiếp tục thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 19/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ; Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông tập trung rà soát, xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Chỉ thị theo kiến nghị của Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia tại văn bản nêu trên.
Bộ Công Thương khẩn trương triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 319/QĐ-TTg ngày 29/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025”; trong đó cần phối hợp với các bộ, cơ quan rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để quản lý việc bán hàng trên môi trường thương mại điện tử, đặc biệt đối với các mặt hàng ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Ban Chỉ đạo 389 quốc gia theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện và tổng hợp, báo cáo kết quả theo nhiệm vụ được giao tại Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 19/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ (Chỉ thị 17).
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Ngày 17/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Nghị định nêu rõ biện pháp, điều kiện bảo đảm bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân
Nghị định nêu rõ, biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân được áp dụng ngay từ khi bắt đầu và trong suốt quá trình xử lý dữ liệu cá nhân.
Các biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân bao gồm: 1- Biện pháp quản lý do tổ chức, cá nhân có liên quan tới xử lý dữ liệu cá nhân thực hiện; 2- Biện pháp kỹ thuật do tổ chức, cá nhân có liên quan tới xử lý dữ liệu cá nhân thực hiện; 3- Biện pháp do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan; 4- Biện pháp điều tra, tố tụng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện; 5- Các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
Bảo vệ dữ liệu cá nhân cơ bản là áp dụng các biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân nêu trên; xây dựng, ban hành các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, nêu rõ những việc cần thực hiện theo quy định của Nghị định này. Khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu cá nhân phù hợp với lĩnh vực, ngành nghề, hoạt động có liên quan tới xử lý dữ liệu cá nhân. Kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống và phương tiện, thiết bị phục vụ xử lý dữ liệu cá nhân trước khi xử lý, xoá không thể khôi phục được hoặc huỷ các thiết bị chứa dữ liệu cá nhân.
Bảo vệ dữ liệu cá nhân nhạy cảm là áp dụng các biện pháp bảo dữ liệu cá nhân, bảo vệ dữ liệu cá nhân cơ bản nêu trên; chỉ định bộ phận có chức năng bảo vệ dữ liệu cá nhân, chỉ định nhân sự phụ trách bảo vệ dữ liệu cá nhân và trao đổi thông tin về bộ phận và cá nhân phụ trách bảo vệ dữ liệu cá nhân với Cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân. Trường hợp Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân, Bên Kiểm soát và xử lý dữ liệu cá nhân, Bên Xử lý dữ liệu, Bên thứ ba là cá nhân thì trao đổi thông tin của cá nhân thực hiện; thông báo cho chủ thể dữ liệu biết việc dữ liệu cá nhân nhạy cảm của chủ thể dữ liệu được xử lý, trừ một số trường hợp quy định.
Cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân
Nghị định nêu rõ, cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân là Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao – Bộ Công an, có trách nhiệm giúp Bộ Công an thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Cổng thông tin quốc gia về bảo vệ dữ liệu cá nhân: Cung cấp thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân; cập nhật thông tin, tình hình bảo vệ dữ liệu cá nhân; tiếp nhận thông tin, hồ sơ, dữ liệu về hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân qua không gian mạng; cung cấp thông tin về kết quả đánh giá công tác bảo vệ dữ liệu cá nhân của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Bên cạnh đó, Cổng thông tin quốc gia về bảo vệ dữ liệu cá nhân tiếp nhận thông báo vi phạm quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân; cảnh báo, phối hợp cảnh báo về nguy cơ, hành vi xâm phạm dữ liệu cá nhân theo quy định của pháp luật; xử lý vi phạm về bảo vệ dữ liệu cá nhân theo quy định của pháp luật; thực hiện hoạt động khác theo quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Điều kiện bảo đảm hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân
Nghị định nêu rõ, điều kiện bảo đảm hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân bao gồm:
1- Lực lượng bảo vệ dữ liệu cá nhân bao gồm: a- Lực lượng chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân được bố trí tại Cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân; b- Bộ phận, nhân sự có chức năng bảo vệ dữ liệu cá nhân được chỉ định trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhằm bảo đảm thực hiện quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân; c- Tổ chức, cá nhân được huy động tham gia bảo vệ dữ liệu cá nhân; d- Bộ Công an xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm phát triển nguồn nhân lực bảo vệ dữ liệu cá nhân.
2- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến kiến thức kỹ năng, nâng cao nhận thức bảo vệ dữ liệu cá nhân cho cơ quan, tô chức, cá nhân.
3- Bảo đảm cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động cho Cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân.
* Nghị định nêu rõ, dữ liệu cá nhân là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự trên môi trường điện tử gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể. Dữ liệu cá nhân bao gồm dữ liệu cá nhân cơ bản và dữ liệu cá nhân nhạy cảm.
Dữ liệu cá nhân cơ bản bao gồm: Họ, chữ đệm và tên khai sinh, tên gọi khác (nếu có); ngày, tháng, năm sinh; ngày, tháng, năm chết hoặc mất tích; giới tính; nơi sinh, nơi đăng ký khai sinh, nơi thường trú, nơi tạm trú, nơi ở hiện tại, quê quán, địa chỉ liên hệ; quốc tịch; hình ảnh của cá nhân; số điện thoại, số chứng minh nhân dân, số định danh cá nhân, số hộ chiếu, số giấy phép lái xe, số biển số xe, số mã số thuế cá nhân, số bảo hiểm xã hội, số thẻ bảo hiểm y tế; tình trạng hôn nhân; thông tin về mối quan hệ gia đình (cha mẹ, con cái); thông tin về tài khoản số của cá nhân; dữ liệu cá nhân phản ánh hoạt động, lịch sử hoạt động trên không gian mạng; các thông tin khác gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể.
Dữ liệu cá nhân nhạy cảm là dữ liệu cá nhân gắn liền với quyền riêng tư của cá nhân mà khi bị xâm phạm sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân gồm: Quan điểm chính trị, quan điểm tôn giáo; tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án, không bao gồm thông tin về nhóm máu; thông tin liên quan đến nguồn gốc chủng tộc, nguồn gốc dân tộc; thông tin về đặc điểm di truyền được thừa hưởng hoặc có được của cá nhân; thông tin về thuộc tính vật lý, đặc điểm sinh học riêng của cá nhân; thông tin về đời sống tình dục, xu hướng tình dục của cá nhân…
Bảo vệ dữ liệu cá nhân là hoạt động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm liên quan đến dữ liệu cá nhân theo quy định của pháp luật.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023.
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Chính phủ vừa có tờ trình gửi Quốc hội Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi). Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) ở lần trình này đã bỏ quy định về sở hữu nhà chung cư có thời hạn sau khi tiếp thu ý kiến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Theo Chính phủ, sở hữu nhà chung cư có thời hạn là vấn đề có tình nhạy cảm, tác động lớn đến xã hội và còn có những ý kiến chưa thống nhất.
Tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) đã bỏ quy định về sở hữu nhà chung cư có thời hạn sử dụng.
Tuy nhiên, Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) bổ sung quy định về thời hạn sử dụng chung cư, trường hợp phá dỡ và làm rõ trách nhiệm các chủ thể liên quan khi phá dỡ, cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư. Việc này, theo Chính phủ, để có cơ sở pháp lý, giải quyết tháo gỡ các trường hợp khó khăn, vướng mắc thực tế.
Trước đó, khi trình lại Chính phủ dự thảo luật này, Bộ Xây dựng cũng đề xuất không quy định sở hữu nhà chung cư có thời hạn.
Tại thông báo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan này đề nghị Chính phủ rà soát các quy định và không quy định thời hạn sở hữu chung cư nhưng cần có quy định chặt chẽ về thẩm quyền, trình tự thủ tục di dời, phá dỡ nhà chung cư cũ.
Trường hợp Chính phủ thấy cần thiết có thể trình Quốc hội ý kiến khác với ý kiến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhưng phải làm rõ cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn, đánh giá tác động và phân tích ưu, nhược điểm từng phương án để Quốc hội thảo luận.
Cấp giấy chứng nhận với nhà ở mới có quyền sở hữu sẽ không đảm bảo quyền của chủ sử hữu
Về thời điểm xác lập quyền sở hữu, chuyển quyền sở hữu nhà ở (Điều 14 Dự thảo Luật), lần trình này Chính phủ vẫn giữ nguyên như lần trình tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước đó.
Theo giải trình của Chính phủ, quy định về thời điểm xác lập quyền sở hữu và thời điểm công nhận quyền sở hữu là hai phạm trù khác nhau, hai thời điểm khác nhau.
“Quyền sở hữu của chủ sở hữu được xác lập khi các chủ thể hoàn thành việc thực hiện hành vi mà không chờ đến khi nhà nước công nhận thông qua thủ tục hành chính. Hành vi công nhận quyền sở hữu của Nhà nước thực hiện sau khi thời điểm xác lập quyền sở hữu”, tờ trình nêu.
Chẳng hạn, khi mở thừa kế thì người nhận thừa kế đã xác lập quyền sở hữu với tài sản thừa kế tại thời điểm mở thừa kế. Hay khi hoàn thành việc xây dựng nhà ở thì chủ sở hữu đã xác lập quyền với nhà ở này…
Chính phủ cho rằng, nếu quy định sau khi được cấp giấy chứng nhận với nhà ở, các chủ sở hữu mới được coi là có quyền sở hữu thì theo Luật Đất đai 2013 sẽ không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sử hữu. Bởi, muốn được công nhận quyền sở hữu thì chủ sở hữu phải thực hiện các thủ tục hành chính với Nhà nước, nên trong thời gian cơ quan có thẩm quyền chưa thực hiện cấp giấy chứng nhận vì lý do khách quan, chủ quan thì các chủ sở hữu sẽ bị hạn chế khi thực hiện mua bán, giao dịch, tặng cho.
Cạnh đó, việc công nhận quyền sở hữu nhà ở khác với công nhận quyền sử dụng đất. Theo Điều 95 Luật Đất đai 2013, Điều 128 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) thì đăng ký đất đai là bắt buộc, còn đăng ký quyền sử hữu nhà ở gắn liền với đất đai thực hiện theo nhu cầu chủ sở hữu.
Như vậy, quyền sở hữu nhà ở được thực hiện theo nhu cầu, và được xác lập không phụ thuộc vào đăng ký quyền sử dụng đất của pháp luật đất đai.
Vì thế, Chính phủ cho rằng quy định tại Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) phù hợp với đặc thù nhà ở, không mâu thuẫn Luật Đất đai hiện hành và Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
Đề xuất người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam được mua, sở hữu nhà ở riêng lẻ và chung cư
Về quyền sử dụng đất gắn với nhà ở do cá nhân nước ngoài sở hữu tại Việt Nam, tại lần trình này Chính phủ giữ nguyên như dự thảo luật. Tức là, cá nhân nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam được mua, sở hữu nhà tại Việt Nam (gồm nhà ở riêng lẻ và chung cư).
Quy định này nhằm đảm bảo tính kế thừa, ổn định với chính sách đang thực hiện, nhưng tiếp thu ý kiến Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội về bỏ quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn với quyền sử dụng đất thuê – theo tờ trình của Chính phủ.
Hiện Luật Nhà ở 2014 cho phép cá nhân nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam được mua, sở hữu nhà ở (gồm nhà riêng lẻ, chung cư) tại các khu vực được phép sở hữu. Người mua nhà ở được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định pháp luật đất đai.
Theo thống kê hiện cả nước có khoảng 3.053 cá nhân, tổ chức nước ngoài mua và được cấp giấy chứng nhận với căn hộ nhà chung cư.
Liên quan tới hình thức sử dụng đất để phát triển nhà ở thương mại, Chính phủ đã sửa các quy định theo hướng kế thừa luật hiện hành với trường hợp có quyền sử dụng đất ở hoặc có quyền sử dụng đất ở và đất khác.
Đồng thời, bổ sung trường hợp có quyền sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở đã nộp tiền sử dụng đất hoặc nộp tiền thuê đất trả tiền một lần cho thời gian thuê, và trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở, đất khác, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở.
Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) gồm 13 chương, 196 điều, tăng 13 điều so với Luật Nhà ở 2014. Dự thảo luật này sẽ được Quốc hội xem xét, thảo luận tại Kỳ họp 5 dự kiến khai mạc vào trong tháng 5 tới.
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Sáng nay (18/4), Trường Cán bộ Thanh tra tổ chức Lễ Khai giảng lớp Nghiệp vụ thanh tra viên chính (TTVC) – K5/2023 cho 108 học viên theo hình thức trực tuyến đến từ các tỉnh khu vực miền Tây Nam Bộ. Tham dự có đ/c Vũ Văn Chiến, Bí thư Đảng ủy – Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra dự và phát biểu khai giảng khóa học.

Trong thời gian hơn một tháng học tập theo hình thức trực tuyến, các học viên sẽ được nghiên cứu nhiều chuyên đề liên quan đến kiến thức chung về công chức, công vụ như: Quản lý Nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác của tổ trưởng tổ xác minh nội dung khiếu nại, tố cáo; công tác của tổ trưởng tổ xác minh kê khai tài sản, thu nhập; giám sát hoạt động đoàn thanh tra; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra; kỹ năng xây dựng kế hoạch tiến hành một cuộc thanh tra; thực hành kỹ năng xây dựng kế hoạch tiến hành một cuộc thanh tra…

Chúc mừng các học viên tham gia khoá học lớp TTVC theo hình thức trực tuyến, đ/c Vũ Văn Chiến, Bí thư Đảng ủy – Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra nhấn mạnh, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên chính được nhà trường đặc biệt quan tâm và xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, vì đây là khóa học nhằm nâng cao năng lực trình độ cho đội ngũ cán bộ nòng cốt của ngành.
Cùng với đó, đ/c Vũ Văn Chiến cho biết thêm, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra nói chung và việc tổ chức khóa bồi dưỡng nghiệp vụ TTVC – K5 năm 2023 nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì các học viên tham dự khóa học đều là cán bộ nòng cốt của ngành Thanh tra.
Khóa bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên chính được bổ sung, tăng cường nhiều buổi thảo luận và báo cáo thực tế, giúp học viên tháo gỡ một số vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực thi công vụ.
Qua đó, hoàn thiện, nâng cao năng lực trình độ cho đội ngũ cán bộ của ngành, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược Phát triển ngành Thanh tra trong thời gian tới. Để đảm bảo chất lượng của khóa học trực tuyến này, đ/c Vũ Văn Chiến, Bí thư Đảng ủy – Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra yêu cầu các học viên khắc phục những khó khăn về thời gian, bố trí công việc một cách khoa học, hợp lý để tham gia các buổi học đầy đủ, nghiêm túc, chấp hành nội quy, quy chế của nhà trường. Đồng thời, các học viên cần tăng cường trao đổi, thảo luận với giảng viên và tích cực tự nghiên cứu để nâng cao chất lượng của khóa học.

Ngay sau Lễ Khai giảng, đ/c Vũ Văn Chiến, Hiệu trưởng Nhà trường đã trực tiếp giảng dạy chuyên đề “Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng” đối với lớp bồi dưỡng nghiệp vụ TTVC – K5 này./.
Triển khai 10 cuộc thanh tra hành chính trong tháng 4
Theo báo cáo của Thanh tra tỉnh, trong tháng 4/2023, ngành thanh tra tỉnh Bến Tre đã tổ chức thực hiện công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng, tiêu cực đạt kết quả như:
Về Thanh tra hành chính: Thanh tra kinh tế – xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản, đất đai toàn ngành đã tiến hành 10 cuộc; kết thúc và ban hành kết luận 01 cuộc; nội dung thanh tra về tài chính, ngân sách, tài sản; việc chấp hành quy định pháp luật về giáo dục, chính sách pháp luật khác có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao; việc chấp hành quy định của pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về đất đai liên quan đến việc quản lý, sử dụng quỹ đất có nguồn gốc do Nhà nước quản lý…
Thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: đang triển khai, thực hiện 01 cuộc thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại 01 đơn vị.
Về Thanh tra chuyên ngành: Thanh tra các sở, ngành tập trung thanh tra, kiểm tra về các lĩnh vực như: giao thông, đo đường chất lượng sản phẩm, truyền thông, môi trường, nông nghiệp, y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm, tư pháp, xây dựng, nội vụ …Tổng số 109 cuộc (đối với 20 tổ chức, 867 cá nhân). Qua thanh tra, kiểm tra, phát hiện 05 tổ chức, 41 cá nhân vi phạm; ban hành 46 quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Về công tác tiếp công dân: toàn tỉnh tiếp 315 lượt/343 người (tiếp thường xuyên 191 lượt/207 người; lãnh đạo tiếp định kỳ 124 lượt/136 người). Nội dung: khiếu nại liên quan đến đất đai; tranh chấp lối đi; khiếu nại liên quan đến công tác bồi thường, giải tỏa; đất tập toàn sản xuất, tố cáo về lĩnh vực hành chính và các phản ánh, kiến nghị khác.
Về công tác xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo: tổng số đơn tiếp nhận 149 đơn (01 đơn không đủ điều kiện, chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết 06 đơn, hướng dẫn 14 đơn, đơn khiếu nại 20 đơn, tố cáo 03 đơn, kiến nghị phản ánh 105 đơn). Đã giải quyết 37 đơn/ 128 đơn.
Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Trong kỳ, toàn ngành thanh tra tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các Kế hoạch, Nghị quyết, văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh; đồng thời, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (140 cuộc/4.431 lượt người tham dự); Thanh tra tỉnh tiếp tục kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập đối với 08 đơn vị, gồm 52 cá nhân.
Tại cuộc họp, đại diện Thanh tra các sở, ngành và Thanh tra các huyện, thành phố đã báo cáo về những hạn chế còn tồn tại theo gợi ý thảo luận.
Chú trọng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra
Về phương hướng trong thời gian tới, ông Phạm Minh Hoà – Chánh Thanh tra tỉnh yêu cầu các đơn vị tiếp tục quan tâm triển khai thực hiện kế hoạch các cuộc thanh tra được phê duyệt theo đúng tiến độ; Thanh tra chuyên ngành tập trung thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật trên các lĩnh vực quản lý.
Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện nghiêm Kế hoạch số 233/KH-UBND và Chỉ thị số 20/CT-TTg, xử lý nghiêm chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát, nhất là đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Ngoài ra, các cơ quan thanh tra trong tỉnh tiếp tục thực hiện tốt việc thẩm định dự thảo kết luận thanh tra; nâng cao chất lượng kết luận thanh tra, đảm bảo khách quan, đúng quy định pháp luật và khả thi; đẩy mạnh công tác giám sát hoạt động các đoàn thanh tra; tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra, kịp thời thu hồi và nâng cao tỷ lệ thu hồi tài sản vi phạm, tiêu cực, tham nhũng…
Chánh Thanh tra tỉnh cũng yêu cầu, thực hiện nghiêm túc trách nhiệm tiếp công dân định kỳ; nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời giải quyết các bức xúc, phản ánh, kiến nghị của người dân ngay từ khi mới phát sinh, không để tạo thành điểm nóng; thực hiện kiểm tra nội bộ, giám sát chặt chẽ hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo không để xảy ra các vấn đề tiêu cực, vi phạm luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Tăng cường trao đổi, phối hợp giữa các cơ quan trong công tác tiếp công dân, giải quyết KN, TC, tạo sự thống nhất trong quá trình xem xét, giải quyết, nhất là đối với những vụ việc đông người, phức tạp.
(Nguồn: ThanhtraVietNam)
Ngày 17/4, tại Trụ sở Tiếp công dân tỉnh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh Nguyễn Xuân Ký đã tiếp công dân định kỳ.

Cùng tiếp có Trưởng ban Tiếp công dân Trung ương Nguyễn Hồng Điệp; quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Cao Tường Huy; Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh Lê Văn Ánh; đại diện các ban Đảng của Tỉnh ủy, các tổ chức chính trị – xã hội và địa phương liên quan.
Tại buổi tiếp, sau khi nghe các ý kiến của công dân, các phân tích của Hội đồng Tiếp công dân tỉnh, cũng như nghiên cứu kỹ các hồ sơ và căn cứ pháp lý liên quan, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh đã cho ý kiến chỉ đạo giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc.
Lắng nghe kiến nghị của một số hộ dân khu Điền Công, phường Trưng Vương, TP Uông Bí, liên quan tới việc thực hiện Công văn số 7796 ngày 21/11/2022 của Văn phòng Chính phủ, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh nhấn mạnh: Về vụ việc này, UBND TP Uông Bí đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại (KN) lần 2.
Năm 2022, Hội đồng Tiếp công dân tỉnh đã tiếp và có chỉ đạo cụ thể các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương giải quyết theo đúng các quy định của pháp luật.
Trong đó, xác định rõ nguồn gốc và quá trình sử dụng đất phần diện tích thuộc dự án kênh làm mát của Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí đã được Nhà nước thu hồi và thực hiện giải phóng mặt bằng từ năm 2002. UBND tỉnh cũng đã thực hiện đúng trách nhiệm được giao, thể hiện tinh thần đi tới cùng vụ việc theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Đối với nội dung các hộ dân đề nghị 2,7 ha phần diện tích nằm trong dự án đường ven sông hiện chưa được hỗ trợ, chính quyền TP Uông Bí cần xem xét có phương án phù hợp đảm bảo đúng quy định pháp luật và công bằng, công khai, minh bạch. Thanh tra tỉnh tiến hành kiểm tra sau thanh tra. Thị xã Quảng Yên và TP Uông Bí phải tháo gỡ ngay các kiến nghị của công dân liên quan tới một số vướng mắc khi thực hiện các thủ tục hành chính về hộ khẩu… sau khi sáp nhập đơn vị hành chính.

Đối với vụ việc bà Vũ Thị Dần, tổ 2, khu Tân Lập 2, phường Cẩm Thủy, TP Cẩm Phả, KN việc giải quyết tranh chấp đất với gia đình liền kề là ông Tô Bá Đoài, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh nêu rõ, việc tranh chấp đất đai giữa gia đình bà Dần và ông Đoài đã được UBND tỉnh ban hành giải quyết KN lần 2 tại Quyết định số 1541 ngày 17/5/2021 và yêu cầu UBND TP Cẩm Phả tiến hành thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp sai đối với 3 hộ dân có liên quan.
Trên cơ sở đó, giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân đúng quy định pháp luật, không để khiếu kiện kéo dài, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Tuy nhiên, đến nay, vụ việc vẫn chưa giải quyết triệt để.
Trước thực trạng trên, người đứng đầu Tỉnh ủy Quảng Ninh yêu cầu, UBND TP Cẩm Phả khẩn trương giải quyết vụ việc, phải hoàn thành trong quý II/2023. Quá trình giải quyết phải thực hiện đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi chính đáng của công dân.
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh giao Mặt trận Tổ quốc tỉnh giám sát việc thực hiện của TP Cẩm Phả đối với vụ việc trên.
Đối với ý kiến của một số hộ dân thuộc chung cư 5 tầng cột 8 cũ, phường Hồng Hà, TP Hạ Long đề nghị xem xét lại giá đất cho 30 hộ dân tại thời điểm 2017, Hội đồng Tiếp công dân tỉnh Quảng Ninh cho biết: Trường hợp các hộ dân không đủ điều kiện tái định cư nhưng đã được tạo điều kiện xét giao đất với giá đất ở theo đúng các quy định của pháp luật tại thời điểm giao đất, căn cứ vào nguyện vọng và rà soát từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở quỹ đất tái định cư hiện nay, TP Hạ Long xem xét các vị trí, phù hợp hơn với khả năng của người dân, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho người dân ổn định cuộc sống.
Về nguyện vọng chính đáng của nhân dân sớm ổn định cuộc sống, có nơi ở ổn định, TP Hạ Long cần phải nắm rõ từng hoàn cảnh, gia cảnh để có phương án tối ưu đảm bảo quyền, lợi ích cho nhân dân và trên cơ sở tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Tại buổi tiếp công dân, Trưởng ban Tiếp công dân Trung ương Nguyễn Hồng Điệp đánh giá cao công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư KN, tố cáo của tỉnh Quảng Ninh.
Thời gian qua, công tác này đã được tỉnh thực hiện nề nếp, bài bản, trách nhiệm, cầu thị, gương mẫu; nhất là vai trò của người đứng đầu cấp ủy các cấp, thể hiện đúng tinh thần Quy định số 11 của Bộ Chính trị.
Trưởng ban Tiếp công dân Trung ương mong muốn, thời gian tới, Quảng Ninh sẽ là địa phương tiên phong trong cả nước kết nối trực tiếp từ Trụ sở Tiếp công dân tỉnh tới Trụ sở Tiếp công dân Trung ương; qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân và tạo thuận lợi cho người dân.
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Theo đánh giá của Bộ GTVT, thời gian qua, công tác quản lý đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe theo phân cấp đã được các Sở Giao thông vận tải, Sở Giao thông vận tải – Xây dựng ( Sở GTVT) quan tâm triển khai thực hiện cơ bản theo quy định, từng bước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe.
Tuy nhiên, qua công tác kiểm tra của Bộ GTVT cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được còn có tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, thực hiện của Sở GTVT, tiềm ẩn nguy cơ tiêu cực như việc khai thác dữ liệu DAT để quản lý công tác đào tạo còn hạn chế; chưa kiểm tra, giám sát khóa học, kỳ thi cấp chứng chỉ hoặc thực hiện còn hình thức, không đúng thực tế; để cơ sở đào tạo gửi báo cáo 1 qua phần mềm chậm nhiều ngày; xét duyệt thí sinh dự sát hạch chưa đủ điều kiện dữ liệu DAT; có hiện tượng thí sinh trao đổi với nhau, sát hạch viên trao đổi với thí sinh trong sát hạch lý thuyết…
Để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục các tồn tại, sai sót và phòng, chống tiêu cực nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác đào tạo, sát hạch lái xe, Bộ GTVT yêu cầu các Sở GTVT thực hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện nghiêm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và quản lý chặt chẽ công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe theo chỉ đạo của Bộ GTVT tại Văn bản số 875/BGTVT-VT ngày 02/02/2023; thường xuyên theo dõi, nắm bắt thông tin dư luận xã hội, chủ động nhận diện các nội dung tiềm ẩn nguy cơ tiêu cực trong công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe để phòng ngừa từ sớm, từ xa.
Thứ hai, thực hiện quản lý công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe theo đúng quy định, trong đó tập trung vào một số nội dung như tổ chức thực hiện nghiêm việc theo dõi, kiểm tra, khai thác và sử dụng dữ liệu DAT, dữ liệu quản lý DAT; tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở đào tạo để quản lý chặt chẽ việc tổ chức giảng dạy theo đúng nội dung, chương trình, kế hoạch, tiến độ đào tạo; kiểm tra kết thúc khóa học theo quy định; Tiếp nhận báo cáo 1, báo cáo 2 đúng thời hạn; đối chiếu danh sách báo cáo 1, báo cáo 2 và dữ liệu quản lý DAT khi xét duyệt danh sách thí sinh dự sát hạch lái xe đảm bảo điều kiện theo quy định, trong đó có đủ số giờ, số kilomet thực hành lái xe trên đường giao thông và các bài học thực hành lái xe.
Cùng với đó là chỉ đạo các cơ sở đào tạo quản lý, sử dụng dữ liệu DAT đảm bảo chính xác; kiểm tra các thông tin về giáo viên, xe tập lái trong quá trình tổ chức đào tạo và xét duyệt học viên thi kết thúc khóa học; kịp thời báo cáo Sở GTVT khi có thay đổi kế hoạch, tiến độ đào tạo (xe tập lái, giáo viên dạy lái, thời gian đào tạo…); Chỉ đạo Hội đồng sát hạch, Tổ sát hạch thực hiện nghiêm các quy định pháp luật và hướng dẫn của Cục Đường bộ Việt Nam về tổ chức kỳ sát hạch lái xe; sát hạch viên thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ; đảm bảo thí sinh không mang, sử dụng điện thoại hoặc thiết bị truyền tin trong phòng sát hạch lý thuyết, sử dụng công nghệ cao trong quá trình sát hạch.
Đồng thời, chỉ đạo Thanh tra Sở GTVT tăng cường giám sát đột xuất các kỳ sát hạch lái xe; chủ động phối hợp với cơ quan quản lý về giáo dục, chính quyền địa phương tăng cường quản lý, kiểm tra, xác minh việc xác nhận đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số không biết đọc, viết tiếng Việt để đảm bảo đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe hạng A1, A4 đúng đối tượng.
Thứ ba, đối với các Sở GTVT đã được kiểm tra cần tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm và có hình thức xử lý tương xứng đối với các tập thể, cá nhân liên quan đến tồn tại, sai sót trong công tác quản lý đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; khẩn trương khắc phục các tồn tại, sai sót trong công tác quản lý, thực hiện của Sở đã được các Đoàn kiểm tra chỉ ra tại biên bản kiểm tra;
Tổ chức rà soát, kiểm tra làm rõ các tồn tại, dấu hiệu vi phạm của các cơ sở đào tạo, trung tâm sát hạch lái xe; Sở GTVT: Đắk Lắk, Lai Châu, Lào Cai xác minh làm rõ hiện tượng sát hạch viên hỗ trợ thí sinh trong một số thời điểm tại một số kỳ sát hạch lý thuyết hạng A1, Sở GTVT Bình Định làm rõ việc cho nhiều thí sinh sát hạch lại thực hành lái xe ô tô trong một số kỳ sát hạch để xử lý vi phạm (nếu có) theo thẩm quyền. Trường hợp có dấu hiệu tiêu cực phải chủ động chuyển cơ quan chức năng xem xét, xử lý theo quy định.



