Từ khóa: phòng, chống tham nhũng; xây dựng pháp luật; kiểm soát quyền lực.
Đặt vấn đề
Điều 2 Hiến pháp năm 2013, sửa đổi, bổ sung năm 2025 (Hiến pháp năm 2013) quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời luôn quan tâm, coi trọng chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật[1]. Đặc biệt, công tác xây dựng và thi hành pháp luật là đột phá của đột phá trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước và là nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng[2].
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác phòng, chống tham nhũng, đặc biệt, trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, ngày 27/6/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 178-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật (Quy định số 178-QĐ/TW). Điều này thể hiện rõ quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường kiểm soát và phòng ngừa các nguy cơ tham nhũng trong tất cả các giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật. Trong kỷ nguyên mới, với những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng pháp luật, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định hiện hành về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật và đề xuất các giải pháp là thực sự cần thiết nhằm thể chế hóa sâu, rộng, hiệu quả các chủ trương của Đảng trong thực tiễn.
1. Khái quát chung về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật
1.1. Khái niệm phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật
Khoản 1 Điều 2 Quy định số 178-QĐ/TW quy định: “Công tác xây dựng pháp luật là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong việc đề nghị, kiến nghị xây dựng pháp luật, lập, thông qua, điều chỉnh chương trình xây dựng pháp luật, soạn thảo, lấy ý kiến, trình, tham gia góp ý, phản biện xã hội, thẩm định, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”. Công tác xây dựng pháp luật hướng tới việc hình thành các quy định pháp luật phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, phù hợp với thực tiễn kinh tế – xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, trong công tác xây dựng pháp luật, một số trường hợp các chủ thể đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để hình thành lợi ích nhóm và vụ lợi cá nhân. Theo khoản 4 Điều 2 Quy định số 178-QĐ/TW, “Tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật là hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn của người có thẩm quyền trong quá trình xây dựng pháp luật vì mục đích vụ lợi”. Đó là hoạt động phức hợp gồm các hành vi kế tiếp nhau, quan hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều cá nhân và nhóm chủ thể có vị trí, chức năng, quyền hạn khác nhau tiến hành nhằm chuyển hóa quyền lợi thành những quy tắc pháp lý, thể hiện chúng dưới những hình thức chính sách, pháp luật (chủ yếu là các văn bản pháp luật)[3]. Điều 5 Quy định số 178-QĐ/TW quy định 06 nhóm hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, gồm:
(i) Hành vi cố ý chủ trì ban hành hoặc tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thể hiện lợi ích nhóm, cục bộ; cố ý trì hoãn việc đình chỉ, bãi bỏ, thay thế, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật vì mục đích lợi ích nhóm, cục bộ. Đây có thể coi là một trong những hành vi nguy hiểm nhất trong các hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật. Việc cố tình đưa những điều khoản “ưu ái” cho một nhóm lợi ích nhất định hoặc trì hoãn việc sửa đổi văn bản pháp luật, thể hiện sự tha hóa quyền lực, coi thường lợi ích công, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
(ii) Hành vi nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc các lợi ích khác dưới mọi hình thức để ban hành hoặc tác động đến cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật nhằm ban hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thể hiện lợi ích nhóm, cục bộ. Đây là hành vi tham nhũng dễ nhận thấy, làm mất tính khách quan, công bằng của pháp luật, dẫn đến các chính sách quan trọng được đưa ra dựa trên lợi ích cá nhân hoặc lợi ích một nhóm người, mà không dựa trên nhu cầu và lợi ích chung của xã hội.
(iii) Hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ cho người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật nhằm ban hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thể hiện lợi ích nhóm, cục bộ.
Hành vi này tạo ra hệ thống pháp luật bị chi phối bởi quyền lực kinh tế, làm suy yếu vai trò điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội, làm “méo mó” môi trường kinh doanh, gây khó khăn cho các chủ thể khác và làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước.
(iv) Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong công tác xây dựng pháp luật để định hướng truyền thông không bảo đảm khách quan và không đúng sự thật về nội dung chính sách trong công tác xây dựng pháp luật vì vụ lợi. Hành vi này tương đối khó phát hiện trong bối cảnh truyền thông đa dạng như hiện nay. Việc kiểm soát thông tin và định hướng dư luận nhằm che đậy những động cơ vụ lợi đằng sau các chính sách, tạo sự đồng thuận giả tạo và gây khó khăn cho việc phát hiện và đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
(v) Hành vi lạm quyền, câu kết với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác để trục lợi trong công tác xây dựng pháp luật. Hành vi này thể hiện sự “móc ngoặc” giữa những người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật với các đối tượng bên ngoài nhằm thu lợi bất chính thông qua việc tạo ra các quy định pháp luật có lợi cho nhóm lợi ích.
(vi) Các hành vi tham nhũng, lợi ích nhóm, cục bộ khác trong công tác xây dựng pháp luật theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đây là một điều khoản mở, cho thấy Đảng và Nhà nước đã tiên liệu tính đa dạng, không ngừng biến đổi của các hành vi tham nhũng. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần theo dõi sát sao, cập nhật liên tục các quy định pháp luật và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng mới phát sinh.
Các hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật diễn ra tinh vi, để lại những hậu quả nghiêm trọng do khả năng tác động của chính sách, pháp luật ở phạm vi và mức độ rộng lớn hơn các hành vi tham nhũng đơn lẻ. Bởi vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải có các biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và chống lại các hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật. Từ các phân tích trên, có thể hiểu, phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật là tổng thể các biện pháp, hoạt động nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý hành vi của người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong công tác xây dựng pháp luật vì vụ lợi.
1.2. Ý nghĩa của phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật
Thứ nhất, phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật góp phần bảo vệ chế độ, xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm tính thượng tôn pháp luật. Đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh gian khó, phức tạp nhưng cần thiết và phải được thực hiện để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, dựa trên lợi ích chung của toàn xã hội.
Thứ hai, phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước, nâng cao đời sống Nhân dân. Hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng là yếu tố then chốt để thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Trong đó, quy trình xây dựng pháp luật minh bạch sẽ tạo ra những văn bản pháp luật chất lượng cao, khả thi, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước.
Thứ ba, phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật giúp củng cố niềm tin của Nhân dân vào chế độ chính trị, duy trì các giá trị đạo đức truyền thống, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Thông qua con đường đấu tranh không khoan nhượng với các hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước.
1.3. Nguyên tắc phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật
Theo Điều 4 Quy định số 178-QĐ/TW, hoạt động phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, chặt chẽ, toàn diện của Đảng trong kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ hai, kết hợp đồng bộ, chặt chẽ các cơ chế, biện pháp kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật; chủ động phòng ngừa là chính; kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; bảo vệ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Thứ ba, đề cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ tư, bảo đảm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật; không làm cản trở sự chủ động, sáng tạo, công khai, minh bạch, dân chủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ năm, bảo đảm sự giám sát, phản biện, tham gia xây dựng pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, cơ quan báo chí, tổ chức xã hội khác và Nhân dân theo quy định.
2. Thực trạng phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật tại Việt Nam
2.1. Một số kết quả đạt được
Thứ nhất, về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật: trong thời gian qua, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật[4], cũng như ban hành các chủ trương, đường lối, định hướng lớn về xây dựng pháp luật, bảo đảm pháp luật phù hợp với Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và tình hình thực tiễn của đất nước. Qua đó, nhận thức về tầm quan trọng của việc phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật đã được nâng lên. Hệ thống quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật ngày càng được hoàn thiện, trong đó, Quy định số 178-QĐ/TW là bước tiến quan trọng, đặt cơ sở vững chắc, làm tiền đề cho việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng vào các quy định pháp luật cụ thể.
Bên cạnh đó, Đảng tiến hành kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng pháp luật về việc chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các quy định về phòng, chống tham nhũng. Đảng đã ban hành các quy định nghiêm khắc về kỷ luật đối với đảng viên vi phạm, gồm cả các hành vi tham nhũng trong quá trình tham gia xây dựng pháp luật.
Thứ hai, về hoạt động kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua việc thực hiện các quy trình, thủ tục trong công tác xây dựng pháp luật: hệ thống pháp luật Việt Nam quy định một quy trình chặt chẽ bảo đảm sự phối hợp, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền từ khâu lập đề nghị xây dựng pháp luật, thông qua chính sách, đưa vào chương trình xây dựng pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra đến ban hành, công khai văn bản quy phạm pháp luật. Công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương ngày càng được quan tâm, coi trọng. Trên cơ sở Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, ngày 17/5/2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 197/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật (Nghị quyết số 197/2025/QH15).
Thứ ba, về hoạt động giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật: hệ thống pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể về hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh[5]; hoạt động thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật để kịp thời phát hiện và xử lý các văn bản trái pháp luật, không phù hợp với thực tiễn hoặc có tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng.
Thứ tư, về hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức xã hội khác, cơ quan báo chí và Nhân dân: Hiến pháp năm 2013 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã quy định vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng như trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc lấy ý kiến góp ý, tham vấn, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức xã hội khác, cơ quan báo chí và Nhân dân với hình thức lấy ý kiến đa dạng.
Thứ năm, về hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong công tác xây dựng pháp luật: pháp luật Việt Nam quy định hình thức xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong công tác xây dựng pháp luật tùy từng mức độ và tính chất của hành vi vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Việc xử lý hành vi vi phạm được thực hiện nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ nhằm răn đe và phòng ngừa các hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Một số vụ việc vi phạm trong công tác xây dựng pháp luật đã bị phát hiện và xử lý, thể hiện tính nghiêm minh của công cuộc phòng, chống tham nhũng.
2.2. Một số hạn chế, vướng mắc
Thứ nhất, ngoài Quy định số 178-QĐ/TW, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa “tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật”, chưa có tiêu chí cụ thể, rõ ràng xác định hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ hai, một số cơ quan chủ trì soạn thảo đề xuất đưa vào chương trình các dự án luật, pháp lệnh chưa đủ căn cứ, chưa thực sự cần thiết, hồ sơ đề nghị được chuẩn bị sơ sài, không đầy đủ hồ sơ theo quy định. Bên cạnh đó, còn có sự lạm dụng việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Một số văn bản khi đề xuất xây dựng theo trình tự, thủ tục rút gọn có phạm vi nội dung ít hoặc đơn giản, tuy nhiên, trong quá trình xây dựng cơ quan chủ trì soạn thảo lại đề xuất mở rộng phạm vi điều chỉnh nên các nội dung mới không được nghiên cứu tổng kết hoặc đánh giá kỹ lưỡng làm ảnh hưởng đến chất lượng dự thảo văn bản.
Thứ ba, một số báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành các quy định pháp luật không khảo sát, đánh giá kỹ thực trạng tại các vùng, miền, địa phương; báo cáo đánh giá tác động chính sách chưa xác định rõ vấn đề cần giải quyết, mục tiêu của chính sách, giải pháp để thực hiện chính sách, nội dung đánh giá tác động còn thiếu thông tin, số liệu đáng tin cậy, chủ yếu sử dụng phương pháp định tính; báo cáo rà soát quy định pháp luật có liên quan, báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới còn hình thức, thiếu thông tin.
Thứ tư, một số trường hợp tổ chức lấy ý kiến dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn hình thức, thủ tục, chưa có trọng tâm; không bảo đảm đúng thời hạn luật định; không lấy ý kiến đầy đủ của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Việc tập hợp, xử lý các ý kiến góp ý chưa được quy chuẩn hóa, nhiều ý kiến tổng hợp trùng lặp hoặc bỏ sót. Việc phản hồi ý kiến góp ý chưa được chú trọng, chất lượng ý kiến đóng góp nhìn chung chưa cao, nhất là đối với những vấn đề mới, phức tạp, còn nhiều tranh luận.
Thứ năm, một số dự thảo văn bản quy phạm pháp luật không quy định rõ thủ tục hành chính hoặc quy định thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, không cần thiết; quy định điều kiện kinh doanh không dựa trên yêu cầu quản lý nhà nước, nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh. Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản có tính chất tùy nghi khi giao nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cho cơ quan, tổ chức; quy định các trường hợp ngoại lệ và miễn trừ quá nhiều hoặc không hợp lý. Quy trình xây dựng thông tư, thông tư liên tịch hiện còn có tình trạng “đóng kín”, thiếu cơ chế phản biện từ bên ngoài hiệu quả. Do đó, thông tư được ban hành tiềm ẩn rủi ro là sẽ chỉ tập trung phản ánh ý chí chủ quan của bộ, ngành mà không quan tâm đúng mức đến nhu cầu của các chủ thể khác, nhất là các đối tượng xã hội chịu sự tác động của thông tư[6].
Thứ sáu, trình độ, kỹ năng của một bộ phận công chức, người được giao trách nhiệm hoạch định chính sách, pháp luật, thể chế chưa ngang tầm với yêu cầu của công việc đặc biệt khó khăn và phức tạp này. Việc đầu tư vào xây dựng pháp luật, thể chế chưa được coi là đầu tư phát triển để có chủ trương đầu tư thỏa đáng, nhất là đầu tư cho giai đoạn xây dựng chính sách, soạn thảo văn bản[7]. Chính sách tiền lương và thu nhập chưa hấp dẫn để huy động các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành đóng góp vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật còn một số tồn tại, hạn chế.
3. Một số kiến nghị, giải pháp
3.1. Hoàn thiện quy định về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Thứ nhất, quy phạm hóa các nội dung liên quan đến phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, đặc biệt, quy phạm hóa các nội dung tại Quy định số 178-QĐ/TW theo hướng làm rõ khái niệm, tiêu chí, cách xác định các “hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật” ngay trong các văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ pháp lý cụ thể, thống nhất cho việc hiện thực hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, đẩy mạnh phản biện xã hội, nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ và tăng cường sự tham gia của các chủ thể liên quan. Để bảo đảm việc lấy ý kiến thực chất, không mang tính hình thức, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 cần quy định chi tiết, rõ ràng hơn về cơ chế phản hồi, quyền hạn của người góp ý và biện pháp xử lý trong trường hợp cơ quan chủ trì soạn thảo không tiếp thu, không giải trình thỏa đáng các ý kiến góp ý.
Thứ ba, nâng cao quy định chế tài về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác xây dựng pháp luật, cần cá thể hóa trách nhiệm, tránh quy định trách nhiệm chung chung, trách nhiệm tập thể. Mặt khác, phải có cơ chế và quy định bảo vệ, khuyến khích những người dám nghĩ, dám làm, bứt phá, đổi mới, sáng tạo vì sự nghiệp chung, không ngại va chạm, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực[8].
Thứ tư, khắc phục sơ hở, bất cập trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, đặc biệt là những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng như quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; thu, chi ngân sách; đầu tư xây dựng; tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan; các chế độ, định mức, tiêu chuẩn[9]… Trên cơ sở Nghị quyết số 197/2025/QH15, các bộ, ngành, địa phương cần khẩn trương rà soát tổng thể các quy định pháp luật, phát hiện các quy định tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tiêu cực, tham nhũng để có cơ chế xử lý, khắc phục kịp thời.
Thứ năm, minh bạch, cắt giảm các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, rà soát danh mục, giảm bớt các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 cần quy định riêng quy trình ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có chứa quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính so với các văn bản pháp luật khác; cần bổ sung đánh giá tác động chính sách về nguy cơ tham nhũng; đối thoại, lấy ý kiến rộng rãi người dân, doanh nghiệp trực tiếp liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật này.
Thứ sáu, cụ thể hóa các chính sách về bảo đảm nguồn nhân lực, nguồn kinh phí và cơ sở vật chất cho công tác xây dựng pháp luật, cơ chế tài chính đặc thù, tương xứng cho công tác xây dựng pháp luật; thu hút, sử dụng hiệu quả và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xây dựng pháp luật; tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
3.2. Nâng cao hiệu quả thi hành các quy định về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Thứ nhất, thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân về tầm quan trọng của việc phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ hai, xây dựng tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng trình độ, trau dồi phẩm chất, ý thức đạo đức công vụ và tinh thần trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng pháp luật chuyên nghiệp, hiệu quả, có năng lực. Thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội, các hiệp hội và các chuyên gia, nhà khoa học để nâng cao chất lượng soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, phát hiện và hạn chế tối đa việc lồng ghép, cài cắm “lợi ích nhóm”, tham nhũng trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, thực hiện công khai, minh bạch toàn bộ quy trình xây dựng pháp luật, đặc biệt, thực hiện nghiêm việc đăng tải dự thảo để lấy ý kiến; bảo đảm các điều kiện để Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, doanh nghiệp, hiệp hội, cơ quan báo chí tham gia vào quy trình xây dựng chính sách, pháp luật, cũng như trách nhiệm giải trình đầy đủ ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thứ tư, tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật để nâng cao hiệu quả, giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tham gia hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật, xử lý nghiêm trách nhiệm của các chủ thể khi để xảy ra tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật; phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong việc phát hiện, kiến nghị xử lý tham nhũng.
Kết luận
Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cần phải có các chủ trương, quyết sách mạnh mẽ mang tính chiến lược và cách mạng về xây dựng, hoàn thiện thể chế, nhất là xây dựng và thi hành pháp luật để tạo xung lực mới đưa đất nước phát triển bứt phá trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc[10]. Trong bối cảnh đó, yêu cầu về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật được đặt ra và trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây là nhiệm vụ khó khăn nhưng vô cùng quan trọng. Phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật thành công góp phần xây dựng hệ thống pháp luật trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững và củng cố niềm tin của Nhân dân vào Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
ThS. Lê Thị Thu Hằng
Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông
NCS. Trần Thị Phương Liên
Học viện Tài chính
[1]. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[2]. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66-NQ/TW).
[3]. PGS. TS. Nguyễn Quốc Sửu (2022), Phòng, chống tham nhũng và kiểm soát vận động chính sách trong quy trình xây dựng pháp luật, https://www.tapchicongsan.org.vn/, truy cập ngày 15/5/2025.
[4]. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đề ra nhiệm vụ: “Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin – cho”, “duyệt – cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”; Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV nêu rõ: “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là người đứng đầu trong xây dựng pháp luật; chống tiêu cực ngay trong công tác xây dựng pháp luật, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào, không để xảy ra tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật”; Kết luận số 12-KL/TW ngày 06/4/2022 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đề cập đến một số nội dung như: “Khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực; trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch”; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đề ra quan điểm chỉ đạo: “Thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật”.
[5]. Điều 62, Điều 63 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
[6]. TS. Nguyễn Quốc Văn (2024), Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, https://tapchicongsan.org.vn/, truy cập ngày 15/5/2025.
[7]. GS. TS. Hoàng Thế Liên (2024), Cải cách thể chế, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 16.
[8]. ThS. Nguyễn Đức Hùng (2021), Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng, https://lsvn.vn/, truy cập ngày 18/5/2025.
[9]. TS. Lê Khánh Ly, Đàm Văn Lợi (2023), Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong thiết chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam, https://noichinh.vn/, truy cập ngày 10/5/2025.
[10]. TS. Nguyễn Văn Cương (2024), Hệ thống pháp luật Việt Nam qua 80 năm xây dựng, hoàn thiện và yêu cầu bức thiết của việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 36.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Minh (2022), Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam, https://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1161/82474/ phong–chong-tham-nhung-trong-xay-dung-chinh-sach–phap-luat-o-viet-nam.aspx, truy cập ngày 15/5/2025.
2. GS. TS. Hoàng Thế Liên (2024), Cải cách thể chế, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. PGS. TS. Nguyễn Quốc Sửu (2022), Phòng, chống tham nhũng và kiểm soát vận động chính sách trong quy trình xây dựng pháp luật, https:// www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/phong-chong-tham-nhung-va-kiem-soat-van-dong-chinh-sach-trong-quy-trinh-xay-dung-phap-luat/, truy cập ngày 14/5/2025.
4. ThS. LS. Nguyễn Đức Hùng (2021), Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng, https://lsvn.vn/hoan-thien-co-che-chinh-sach-phap-luat-ve-phong-chong-tham-nhung1623638587-a105148.html, truy cập ngày 18/5/2025.
5. TS. Lê Khánh Ly, Đàm Văn Lợi (2023), Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong thiết chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam, https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202312/ky-2-mot-so-giai-phap-gop-phan-hoan-thien-co-che-phong-ngua-ngan-chan-tham-nhung-o-viet-nam-trong-thoi-gian-toi-hoan-thien-co-che-phong-ngua-ngan-chan-tham-nhung-trong-thiet-che-quyen-luc-nha-nuoc-o-v-313291/, truy cập ngày 10/5/2025.
6. TS. Nguyễn Quốc Văn (2024), Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, https://www. tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dungdang/-/2018/957002/mot-so-van-de-ve-phong%2Cchong-tham-nhung-trong-xay-dung-phap-luat-o-viet-nam-hien-nay.aspx, truy cập ngày 15/5/2025.
7. TS. Nguyễn Văn Cương (2024), Hệ thống pháp luật Việt Nam qua 80 năm xây dựng, hoàn thiện và yêu cầu bức thiết của việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 2 (435) tháng 8/2025)
https://danchuphapluat.vn/mot-so-van-de-ve-phong-chong-tham-nhung-trong-cong-tac-xay-dung-phap-luat-tai-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-7615-7615.html