1. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện thể chế trực tiếp liên quan đến kiểm soát quyền lực nhằm phòng chống tham nhũng, tiêu cực
KSQL bên trong hệ thống chính là cơ chế đã được hiến định tại Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013, tức là sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước ở các nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ chế kiểm soát này đã được thể chế hóa tương đối toàn diện thông qua việc Quốc hội ban hành một số đạo luật liên quan trực tiếp đến việc KSQL và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trong đó, phải đề cập đến Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, đã quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan quyền lực nhà nước, đặc biệt là Quốc hội với tư cách là chủ thể nắm giữ quyền giám sát tối cao trong bộ máy nhà nước. Ngoài ra, cũng cần phải đề cập đến Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành với ý nghĩa là đạo luật chuyên điều chỉnh việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng. Gắn liền với chức năng quản lý hành chính nhà nước (tức hoạt động của bộ máy hành pháp), hệ thống pháp luật thanh tra với trụ cột là Luật Thanh tra cũng đã quy định liên quan trực tiếp tới vấn đề KSQL và PCTN: ngoài việc nhấn mạnh vấn đề thanh tra trách nhiệm quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, Luật cũng xác định nguyên tắc hoạt động thanh tra; trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra cũng như ban hành và thực hiện kết luận thanh tra; mối quan hệ và sự phối hợp giữa hoạt động thanh tra với các hoạt động cũng mang tính chất KSQL khác như hoạt động điều tra, kiểm toán…
Trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, tài sản công tài chính công, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 quy định các vấn đề pháp lý liên quan đến việc đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của các thông tin tài chính công, tài sản công hoặc báo cáo tài chính liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; việc chấp hành pháp luật và hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Do vậy, Luật Kiểm toán nhà nước cũng giữ vị trí quan trọng trong hệ thống thể chế về KSQL nhằm PCTN với ý nghĩa là công cụ pháp lý bảo vệ kỷ cương ngân sách, kỷ cương tài chính quốc gia.
Ngoài ra phải kể đến Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng được ban hành năm 2009, vừa qua đã tổng kết và Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030 (từ đây gọi là Chiến lược quốc gia mới) đã được Chính phủ ban hành, trong đó nêu rõ mục tiêu và các nhiệm vụ giải pháp thực hiện thực sự là những công cụ quan trọng về thể chể phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đó là chưa kể đến một loạt quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong các lĩnh vực (công tác cán bộ, công tác giám sát kiểm tra của Đảng, thanh tra, kiểm toán; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án…). Trong điều kiện Đảng cầm quyền và tuyệt đại đa số cán bộ, công chức là đảng viên thì có thể coi đây là những công cụ cực kỳ hữu hiệu để kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực tiễn phát hiện và xử lý tham nhũng thời gian vừa qua cho thấy điều này
Như vậy, Việt Nam cho đến nay đã có sự tồn tại một hệ thống thể chế, pháp luật khá đầy đủ quy định riêng về vấn đề KSQL và PCTN giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các đạo luật đã đề cập, trong thực tiễn, vẫn gặp phải nhiều vướng mắc, bất cập. Do vậy, hoàn thiện thể chế về KSQL bên trong bộ máy nhà nước là nhiệm vụ cần tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới, điều này đã được chỉ ra trong Chiến lược quốc gia mới:
– Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình nghiệp vụ của các cơ quan kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả, không chồng chéo;
– Tăng cường chế độ trách nhiệm, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhất là các cơ quan, đơn vị chuyên trách;
– Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; có chính sách đãi ngộ hợp lý đảm bảo cho những người làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực yên tâm công tác, vững vàng trong thực hiện nhiệm vụ;
– Thực hiện các quy định bảo đảm cho việc thu hồi, tịch thu triệt để tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát do tham nhũng, tiêu cực; xây dựng, khai thác có hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng, hành vi tẩu tán tài sản;
– Thực hiện chuyển đổi số và đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong các hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
– Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trong phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực và thu hồi tài sản.
Để cụ thể hóa giải pháp nêu trên, trong giai đoạn 2023 đến 2026, Chiến lược mới đã liệt kê một loạt giải pháp về thể chế liên quan trực tiếp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đó là:
– Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018;
– Tổng kết việc thực hiện Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 – 2025;
– Rà soát, sửa đổi cơ chế thiết lập quy trình quản lý, xử lý tài sản phạm tội và tài sản liên quan đến tham nhũng, kinh tế rửa tiền, tài trợ khủng bố;
– Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 50/2018/NĐ-CP ngày 09/4/2018 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ, trong đó chú trọng nội dung phòng, chống tham nhũng;
– Xây dựng CSDL quốc gia về kiểm soát tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước;
– Xây dựng Đề án tăng cường kiểm tra, giám sát chuyên đề công tác phát hiện, chuyển giao, tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, dư luận bức xúc, báo chí phản ánh;
– Tiếp tục nghiên cứu tính khả thi và đề xuất việc xây dựng cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội tại Việt Nam.
Ngoài ra việc hoàn thiện các quy định nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ, kịp thời kết luận thanh tra, báo cáo kết quả kiểm toán cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động KSQL này; đồng thời cũng cần nghiên cứu để hoàn thiện các quy định liên quan đến sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động KSQL và PCTN. Nâng cao tính đồng bộ và sự kế thừa hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra của các cơ quan khác trong hệ thống chính trị.[1] Ngoài ra, cần sớm xử lý những bất cập chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động của cơ quan thanh tra và cơ quan kiểm toán đã tồn tại trong nhiều năm bằng các quy định pháp luật cụ thể, phần nào đã được đề cập đến trong Luật Thanh tra 2022 (đã có hiệu lực áp dụng từ ngày 1/7/2023).
2. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực thông qua việc nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia nhằm phòng chống tham nhũng, tiêu cực
KSQL thông qua việc tăng cường hiệu quả quản trị quốc gia với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành, nhất là liên quan đến tài chính công, tài sản công và các lĩnh vực quản lý kinh tế-xã hội tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, tiêu cực là kiểm soát quyền lực nhằm phòng ngừa tham nhũng tiêu cực, với mục tiêu “không thể tham nhũng”. Cùng với đó là việc kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, hoàn thiện chế độ công vụ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm chính; nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
Chiến lược quốc gia mới đã đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý kinh tế – xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực như: tổ chức cán bộ; quản lý tài chính, ngân sách, tài sản công, quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, đầu tư, xây dựng, đấu thầu, đấu giá; đất đai, tài nguyên, khoáng sản; tín dụng, ngân hàng; thuế, hải quan và các lĩnh vực khác liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp; Hoàn thiện pháp luật về ban hành chính sách, pháp luật. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong quá trình ban hành, sửa đổi, bổ sung, thu hồi, đình chỉ, gia hạn, bãi bỏ, tổ chức thực hiện các quyết định hành chính; Khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và người đứng đầu trong việc tổ chức thực hiện;
Trên cơ sở đó, Chiến lược quốc gia mới đã nêu ra một loạt nhiệm vụ về hoàn thiện thể chế cho giai đoạn 2023-2026 bao gồm:
– Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai;
– Sửa đổi, bổ sung Luật Khoáng sản;
– Sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở;
– Sửa đổi, bổ sung Luật các Tổ chức tín dụng;
– Sửa đổi, bổ sung Luật Đấu giá tài sản;
– Sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bất động sản;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán;
– Sửa đổi, bổ sung Luật Thuế bảo vệ môi trường;
– Sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, Công chức, Luật Viên chức;
– Nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện, đề xuất cải cách chính sách tiền lương và phụ cấp mới;
– Tổng kết chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi Luật Thi hành án dân sự;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài hệ thống công quyền
Nâng cao nhận thức, phát huy vai trò của xã hội luôn là một trụ cột quan trọng thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đây chính là KSQL từ bên ngoài được thực hiện bởi các chủ thể nằm ngoài hệ thống các cơ quan nhà nước, bao gồm: Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên; Doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề; Báo chí và các phương tiện truyền thông; Nhân dân. Vai trò của từng chủ thể này đối với việc KSQL và PCTN, cho đến nay đã được Nhà nước quan tâm và có những bước thể chế hóa căn bản.
Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên có thể kể đến: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 và đặc biệt là Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 15/6/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về các hình thức giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Đối với báo chí và các phương tiện truyền thông có thể nhắc đến Luật Tiếp cận thông tin, Luật Báo chí;
Đối với nhân dân nói chung thì vai trò giám sát và KSQL được thể chế hóa thông qua Luật Tiếp công dân 2013, Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2018; Luật Trưng cầu ý dân 2015; Luật Thực hiện dân chủ cơ sở 2022; Luật Tố tụng hành chính.
Như vậy, tương tự như cơ chế kiểm soát bên trong, kiểm soát từ bên ngoài đến nay cũng đã có cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ, toàn diện, về lý thuyết có thể cho phép các chủ thể trong xã hội tham gia tích cực vào hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là KSQL và PCTN. Mặc dù vậy, cải cách thể chế trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều dư địa thực hiện trong thời gian tới và cần tập trung vào các vấn đề như:
Thứ nhất, nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hoá kịp thời, đầy đủ quyền và trách nhiệm tham gia giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội: Quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò giám sát của nhân dân (giám sát trực tiếp và giám sát thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội); trách nhiệm trả lời, giải quyết các ý kiến, kiến nghị sau giám sát; cơ chế tiếp nhận thông tin phản ánh của người dân trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội tham gia hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử; chế tài xử lý tổ chức, cá nhân không hợp tác, gây khó khăn, cản trở hoạt động giám sát, phản biện xã hội hoặc lợi dụng quyền giám sát, phản biện xã hội để gây tổn hại cho tổ chức, cá nhân. Quy định kinh phí bảo đảm cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội thực hiện tốt công tác giám sát, phản biện xã hội[2];
Thứ hai, bổ sung các quy định để huy động và khuyến khích sự tham gia chủ động, tích cực hơn nữa của các tổ chức, người dân, doanh nghiệp vào chính hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật. Những thành công từ kết quả lấy ý kiến của người dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) thời gian gần đây cho thấy nhân dân trong thời đại ngày nay rất quan tâm và sẵn sàng tham gia đóng góp ý kiến đối với các vấn đề quan trọng của đất nước. Thể chế hóa theo hướng khuyến khích hơn nữa sự tham gia của xã hội, người dân ngay từ giai đoạn lập pháp, lập quy sẽ làm sâu sắc hơn nữa bản chất dân chủ của một Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đồng thời là cơ chế KSQL và PCTN ngay từ khâu xây dựng thể chế, pháp luật – hiện nay đang tồn tại nhiều khoảng trống pháp lý. Cụ thể: cần nghiên cứu để bổ sung các quy định cụ thể hơn về trách nhiệm tiếp nhận, tổng hợp, giải trình tiếp thu và phản hồi ý kiến góp ý, từng bước khắc phục tính hình thức của việc lấy ý kiến trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật;
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện cơ chế để bảo vệ các chủ thể khi tham gia vào hoạt động KSQL và PCTN. Thực tế hiện nay nhiều người dân, nhà báo, cơ quan báo chí ngại tham gia đấu tranh PCTN, tiêu cực, vì tâm lý sợ gánh chịu hậu quả, sợ người bị tố cáo có chức vụ, quyền hạn và có vị thế cao trong xã hội. Khả năng bị bị hăm dọa, trù dập, bị gây nguy hiểm đến tính mạng và người thân trong gia đình là hoàn toàn có thể xảy ra. Vì thế, rất cần có cơ sở pháp lý đầy đủ để cung cấp thông tin, bảo vệ người dân nhà báo, các cơ quan báo chí trong công cuộc KSQL và PCTN.
Thứ tư, đối với hoạt động của báo chí, sau nhiều năm triển khai thực hiện Luật Báo chí 2016, mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng, song thực tế vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi toàn diện Luật Báo chí 2016 và Nghị định 09[3] nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập, bảo đảm tốt hơn quyền tiếp cận thông tin của báo chí.
Một vấn đề quan trọng nữa liên quan đến quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật. Pháp luật cần quy định trách nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin của các cơ quan tổ chức khác trong hệ thống chính trị, như các cơ quan, tổ chức của Đảng, các đoàn thể xã hội, trường học, bệnh viện, các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân sử dụng nguồn ngân sách lớn từ nhà nước hoặc các tổ chức tư nhân thực hiện nhiệm vụ công. Mặt khác, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí cũng là nhu cầu của các cơ quan tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp, xuất phát từ yêu cầu hoạt động truyền thông và lợi ích của các cơ quan, tổ chức này chứ không phải chỉ là nhu cầu của nhà báo. Luật cần có hướng dẫn cụ thể về quy trình, thủ tục tiếp nhận và giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin của báo chí đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị; yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị bố trí cán bộ đầu mối để thực hiện việc tiếp nhận và giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin của báo chí. Luật cần giải thích rõ hơn các khái niệm và quy định chưa thật sự rõ ràng, còn gây hiểu nhầm, tranh cãi, như quy định về người phát ngôn được ủy quyền, những thông tin nào được coi là thuộc danh mục bí mật nhà nước, thế nào là bí mật thuộc nguyên tắc và quy định của Đảng, thế nào là bí mật công tác, những tài liệu nào phải cung cấp cho báo chí, những cuộc họp nào của cơ quan nhà nước báo chí có thể tham dự…
Với giải pháp này, Chiến lược quốc gia mới đã xác định một số nhiệm vụ về thể chế cần thực hiện trong giai đoạn 2023-2026, cụ thể là:
– Nghiên cứu, rà soát Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-MTTQVN quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban MTTQVN và các luật, nghị quyết khác có liên quan;
– Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thi đua, khen thưởng;
– Nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Xuất bản;
– Sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí;
– Tổng kết việc đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng;
– Xây dựng Kế hoạch Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2024 – 2026;
– Đề án thực hiện kinh doanh liêm chính;
– Rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và các cơ quan báo chí, truyền thông;
– Tổng kết, đánh giá, đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật về khen thưởng và bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực;
– Nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện thể chế về phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước nhằm KSQL, góp phần PCTN, TC
Như đã nêu, KSQL và PCTN là những vấn đề lớn, có phạm vi rộng. Để KSQL và PCTN tốt đòi hỏi sự chuyển đổi mang tính cơ bản, toàn diện ở nhiều phương diện khác nhau trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, đặc biệt là hoạt động quản lý hành chính nước của bộ máy hành pháp – vốn được coi là đối tượng quan trọng nhất của KSQL và PCTN. Bộ máy hành pháp, thông qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, là cầu nối đưa chính sách, pháp luật vào đời sống xã hội. Do vậy, các chủ thể thuộc bộ máy hành pháp, bao gồm cả cơ quan và những người làm việc trong các cơ quan đó là đội ngũ công chức, có sự tương tác, gắn bó thường xuyên và mật thiết hơn với người dân nếu so sánh với lập pháp và tư pháp. Cũng chính vì ý nghĩa đó mà quyền hành pháp được trao cho những quyền hạn và nhiệm vụ rộng lớn với nguồn lực dồi dào để có thể thực hiện chức năng của mình. Trên thực tế, hành pháp quản lý nguồn lực quốc gia, ngân sách, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ công chức, cung cấp dịch vụ công…Các cơ quan được giao thẩm quyền hành pháp cũng trực tiếp hỗ trợ, tham gia hoặc quyết định việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức, của công dân và doanh nghiệp. Hơn ai hết mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân thể hiện rõ nét nhất qua hoạt động hành pháp. Các cơ quan hành pháp có nguy cơ lạm quyền, lợi dụng quyền lực để tham nhũng cao hơn, do vậy cần phải được đặt trong cơ chế KSQL và PCTN chặt chẽ hơn.
Bên cạnh hệ thống pháp luật trực tiếp liên quan đến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực như đã phân tích, việc tăng cường KSQL và PCTN đòi hỏi những cải cách sâu rộng trong thể chế, chính sách liên quan đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nói cách khác, để KSQL và PCTN hiệu quả hơn thì quá trình tổ chức thực hiện quyền hành pháp phải được điều chỉnh theo hướng chặt chẽ, công khai và minh bạch hơn, từng bước chuyển dịch từ “quản lý” sang “quản trị” theo tinh thần đổi mới quản trị quốc gia được đặt ra tại Nghị quyết Đại hội XIII. Trong các phương diện của đổi mới quản trị quốc gia, quản trị nhà nước hiện nay, một vấn đề đã và đang được đẩy mạnh, được xem là trụ cột quan trọng của cải cách hành chính, đồng thời có ý nghĩa không nhỏ đối với KSQL và PCTN, đó là phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước.
Phân cấp, phân quyền nhằm phân định nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp để việc quản lý được khoa học, thuận lợi và hiệu quả là một chủ trương lớn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, đặc biệt trong thời gian gần đây. Chủ trương này đã được xác định rõ trong rất nhiều văn kiện của Đảng: Nghị quyết đại hội XII, XIII, Nghị quyết số 18 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Nghị quyết số 27 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 28 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Phân cấp, phân quyền cũng được thể hiện xuyên suốt từ Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Trong đó, đặc biệt Luật Tổ chức chính quyền địa phương có 04 điều quy định nguyên tắc cũng như là cơ chế cho việc thực hiện phân cấp, phân quyền giữa trung ương và các cấp chính quyền địa phương; tiếp đó là các Nghị quyết số 21 về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Nghị quyết số 99 về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; và tất nhiên không thể không nhắc đến Nghị quyết số 76 ban hành Chương tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030. Mới đây, Quốc hội đã có chủ trương thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ cũng đưa ra 44 chính sách trong đó có đề cập tới đẩy mạnh phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, tạo lực đẩy mạnh mẽ cho đầu tàu kinh tế của cả nước.
Phân cấp, phân quyền nói chung cùng với các hình thức chuyển giao thẩm quyền, công việc khác đã và đang là xu hướng tất yếu trong quản trị nhà nước hiện đại. Phân cấp, phân quyền được thực hiện một cách khoa học, bài bản, rõ ràng và hợp lý sẽ góp phần phân định rõ hơn trách nhiệm của các cấp, các ngành, thậm chí trách nhiệm của cá nhân trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Theo logic, quyền lực được “phân mảnh” và minh định càng rõ ràng thì quá trình kiểm soát việc lạm dụng quyền lực hay công tác phát hiện, xử lý các hành vi lợi dụng thẩm quyền, quyền hạn để tham nhũng,… sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Không phải ngẫu nhiên mà khoản 3 Điều 2 Hiến pháp đã đặt “phân công” trước “kiểm soát. Bởi về lý thuyết, quyền lực phải được phân công, phân định rõ thì mới có cơ sở để tiến hành kiểm soát.
Nâng cao hiệu quả phân cấp, phân quyền trong thời gian tới đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện thể chế về phân cấp, phân quyền theo các định hướng chủ yếu sau:
Thứ nhất, rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các Bộ, ngành, giữa Chính phủ, các Bộ, ngành với chính quyền địa phương, bảo đảm phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)[4]. Tinh thần chủ đạo là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ không quyết định các vấn đề cụ thể thuộc trách nhiệm của các Bộ, ngành theo phân công của Chính phủ và những vấn đề thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi đã được phân cấp, phân quyền. Các cấp, các ngành, các cá nhân đã được phân cấp, phân quyền phải chịu trách nhiệm đến cùng với công việc, trách nhiệm đã được chuyển giao.
Thứ hai, chính quyền địa phương cấp tỉnh cần chủ động xây dựng chính sách, cơ chế để tiếp tục phân cấp, ủy quyền cho các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (phân cấp, ủy quyền theo chiều ngang) và cho cơ quan hành chính cấp dưới là Ủy ban nhân dân huyện, xã (phân cấp, ủy quyền theo chiều dọc). Ngoài quyền hạn thì cũng phải giao đủ nguồn lực, các điều kiện bảo đảm thực hiện, hướng dẫn, hỗ trợ cho cấp, cá nhân được trao quyền. Bên cạnh đó, chuyển giao công việc, thẩm quyền, trách nhiệm phải khoa học và hợp lý, tránh dẫn đến tư duy cào bằng. Ngoài ra, phân cấp, phân quyền, ủy quyền phải được nghiên cứu thực hiện theo tư duy mở, linh hoạt, đổi mới sáng tạo, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và năng lực quản trị của các cấp, các ngành, các địa phương thay vì thực hiện theo nguyên tắc cứng nhắc.
Thứ ba, cá thể hóa trách nhiệm đối với cá nhân người thực thi công vụ, nhiệm vụ. Để có cơ sở thực hiện việc xem xét, đánh giá và xử lý đối với vi phạm trong thực thi công vụ của cơ quan quản lý và cán bộ, công chức góp phần kiểm soát việc thực thi công vụ và PCTN thì trước hết cần phải hoàn thiện pháp luật về chế độ công vụ theo hướng quy định rõ trách nhiệm công vụ của từng chủ thể cụ thể. Trách nhiệm công vụ ở đây là những việc mà các chủ thể phải làm được liệt kê một cách cụ thể, chi tiết. Việc hoàn thiện pháp luật về chế độ công vụ liên quan đến tất cả các ngành, lĩnh vực trong hoạt động của nền hành chính. Tiếp đó, cần hoàn thiện pháp luật và tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra hoạt động công vụ, trong đó cần làm rõ phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm giữa thanh tra, kiểm tra của ngành nội vụ với tư cách là thanh tra, kiểm tra chuyên ngành với thanh tra, kiểm tra của thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của mình.vì vậy, bên cạnh những nội dung về tuyển dụng, quản lý và sử dụng công chức, hoạt động thanh tra công vụ cần tập trung tiến hành thường xuyên các nội dung sau: (i) việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo nội quy, quy chế làm việc của cơ quan, tổ chức hoặc do cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền giao; (ii) việc thực hiện các quy định của pháp luật về đạo đức, quy tắc ứng xử, văn hóa giao tiếp trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức; những việc cán bộ, công chức không được làm và một số quy định về trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong PCTN, tiêu cực
Như đã nêu ở phần mở đầu, KSQL và PCTN là những vấn đề lớn, có phạm vi rộng. Vì vậy, việc thể chế hóa phải mang tính tổng thể, toàn diện. Quan điểm này đã được thể hiện trong Báo cáo Tổng quan Đề án “Tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành hoặc chỉ đạo ban hành các quy định về KSQL để PCTN, tiêu cực”. Tại phần cuối của Báo cáo, Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án đã kiến nghị, đề xuất Bộ Chính trị giao các cơ quan, tổ chức Đảng khác nhau chủ trì xây dựng Quy định riêng về KSQL, PCTN, bao quát các nhóm lĩnh vực khác nhau, cụ thể: (1) Ủy ban Kiểm tra trung ương nghiên cứu xây dựng Quy định về KSQL, PCTN, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng, thanh tra, kiểm toán; (2) Ban Tuyên giáo Trung ương nghiên cứu xây dựng Quy định về KSQL, PCTN, tiêu cực trong hoạt động báo trí, truyền thông; (3) Đảng đoàn Quốc hội nghiên cứu xây dựng Quy định về KSQL, phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; (4) Ban Nội chính Trung ương nghiên cứu xây dựng Quy định về KSQL, PCTN, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; (5) Ban cán sự đảng Chính phủ nghiên cứu xây dựng Quy định về KSQL, PCTN, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
KẾT LUẬN. Để đảm bảo tính toàn diện trong KSQL và PCTN thì thể chế, chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực này cần phải phát huy sức mạng tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn xã hội, đồng thời bao quát các phương diện kiểm soát từ bên trong, kiểm soát từ bên ngoài, kết hợp giữa KSQL, PCTN với cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, đặc biệt là hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhằm mục đích xử lý tốt, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa ổn
Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ
[1] Bài viết “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát và theo dõi, đánh giá việc thực hiện kết quả giám sát”, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-giam-sat.aspx?ItemID=76310, truy cập ngày 30/6/2023.
[2] Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 26/10/2022 của Ban Bí thư về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội
[3] Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước.
[4] Theo Báo cáo Kết quả thực hiện phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước giai đoạn 2016-2021 và định hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước của Chính phủ, có tổng số 33 Luật cần sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới (năm 2021: 06 luật; năm 2022: 10 luật; năm 2023: 06 luật; năm 2024: 02 luật; năm 2025: 08 luật; năm 2026-2030: 01 luật); 46 Nghị định của Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới (năm 2021: 03 Nghị định; năm 2022: 32 Nghị định; năm 2023: 04 Nghị định; năm 2024: 05 Nghị định; năm 2025: 02 Nghị định)