1. Một số hạn chế trong phòng, chống tham nhũng
Phòng chống tham nhũng (PCTN) là một lĩnh vực công tác luôn thu hút được sự quan tâm đặc biệt của xã hội, thể hiện sự tin tưởng của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thời gian qua, công tác PCTN trên phạm vi cả nước đạt được những kết quả khá tích cực, để lại dấu ấn tốt, lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Công tác PCTN, lãng phí, tiêu cực đã trở thành phong trào, xu thế, được nhân dân đồng tình, đánh giá cao”. Để công cuộc đấu tranh PCTN hiệu quả, các cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương của tỉnh cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ, đồng bộ với quyết tâm cao. Mặc dù đã có nhiều thành tựu, song tư duy lý luận về PCTN ở nước ta hiện vẫn chưa hoàn thiện, cụ thể như sau:
Một là, đối với nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng và thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật PCTN nói riêng chưa đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của thực tiễn; chưa xác định xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật PCTN là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; chưa gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa công tác nghiên cứu lý luận trong lĩnh vực pháp luật với thực tiễn xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Việc khắc phục sơ hở, bất cập, hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế – xã hội và PCTN trên một số lĩnh vực có lúc, có nơi còn chậm. Cơ chế kiểm soát quyền lực trên nhiều lĩnh vực chưa có hoặc có nhưng chưa cụ thể, chậm được hoàn thiện, việc tổ chức thực hiện hiệu quả chưa cao; công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, năng lực trình độ của cán bộ pháp chế, cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật tại các bộ, ngành và địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, tính chuyên nghiệp chưa cao; năng lực trình độ nhận diện vấn đề và kỹ năng, nhất là kỹ năng phân tích, dự báo, xây dựng chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Xét về mặt chiến lược, có sự thiếu cân bằng trong việc thực hiện cách tiếp cận bốn không về PCTN. Điều đó thể hiện ở các chính sách, pháp luật và những nỗ lực PCTN nói chung ở nước ta hiện nay đang tập trung vào việc thực hiện hai mục tiêu “Không thể tham nhũng” và “Không dám tham nhũng”, thông qua việc xác lập các biện pháp để giám sát, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức. Khung chính sách, pháp luật nhằm thực hiện hai mục tiêu này liên tục được củng cố trong những năm gần đây, và toàn thể hệ thống chính trị trong mấy năm gần đây cũng dồn sức vào việc thực hiện các mục tiêu này, dẫn đến kết quả là nhiều vụ tham nhũng lớn với những quan chức cấp cao bị đưa ra ánh sáng và bị xét xử.
Hai là, từ một góc nhìn lý luận khác, sự kết nối giữa PCTN với kiểm soát quyền lực và quản lý nhà nước (hay quản trị quốc gia) – hai yếu tố căn cốt làm nền tảng cho PCTN – còn lỏng lẻo. Cả hai vấn đề kiểm soát quyền lực và quản trị nhà nước hiện vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đóng vai trò hỗ trợ đắc lực cho PCTN.
Liên quan đến quản trị nhà nước, hiện tại tám nguyên tắc của quản trị nhà nước tốt (good governance, bao gồm sự tham gia của người dân (participatory), định hướng đồng thuận (consensus oriented), trách nhiệm giải trình (accountable), sự minh bạch (transparent), sự kịp thời (responsive), tính hiệu lực (effective), tính hiệu quả (efficient), tính bình đẳng và không loại trừ chủ thể nào (equitable and inclusive) và tính pháp quyền (the rule of law) đều đã được quy định trong pháp luật Việt Nam, với những cách thức và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, khung pháp luật về những nguyên tắc có liên quan nhiều nhất đến PCTN, bao gồm sự tham gia của người dân, trách nhiệm giải trình, sự minh bạch và tính pháp quyền đều còn thiếu cụ thể. Thêm vào đó, bản thân khái niệm quản trị nhà nước tốt ở Việt Nam cũng còn là mới mẻ về mặt nhận thức (mặc dù đã được đề cập và thực hành trên thế giới từ những thập kỷ 1980), cho nên các nguyên tắc của nó chưa được đề cập như là một chỉnh thể, thiếu sự kết nối với nhau, vì thế chưa tạo ra được cơ sở vững chắc cho việc PCTN.
Ba là, khung chính sách, pháp luật về PCTN hiện đã khá toàn diện, song vẫn chưa xác định được những biện pháp phù hợp để phòng, chống từng dạng tham nhũng cụ thể, như tham nhũng nhỏ (hay „tham nhũng vặt‟ – petty corruption), tham nhũng lớn (hay tham nhũng chính sách – grand corruption), và đặc biệt là hình thức lũng đoạn nhà nước (state capture). Mặc dù có bản chất chung đều là sự lạm dụng quyền lực để thu lợi ích riêng, song mỗi dạng tham nhũng đã nêu xảy ra trong những bối cảnh và mang những đặc điểm riêng, vì thế ngoài những biện pháp áp dụng chung, chúng cần phải có những biện pháp đặc thù để phòng, chống hiệu quả. Ví dụ, với tham nhũng vặt (dạng tham nhũng xảy ra phổ biến nhất nhưng thường có giá trị nhỏ, mà thủ phạm là cán bộ, công chức ở cấp cơ sở), cải cách hành chính để giảm thiểu việc tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, công chức với người dân và doanh nghiệp trong tiếp cận dịch vụ công cần xem là giải pháp then chốt, trong khi để ngăn ngừa sự lũng đoạn nhà nước (dạng tham nhũng nguy hiểm mà trong đó có sự cấu kết chặt chẽ giữa các quan chức cấp cao và các doanh nghiệp có thế lực lớn để định hướng, lèo lái‟ chính sách công theo lợi ích của họ) thì giải pháp quan trọng cần là quản lý xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ.
Bốn là, Công nghệ số (digital technology) là một trong ba lĩnh vực chính của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (cùng với công nghệ sinh học và vật lý). Công nghệ số giúp thay đổi từ mô hình quản trị truyền thống sử dụng nguồn nhân lực lớn sang quản trị hiện đại mà mọi vấn đề được xử lý bằng trí thông minh nhân tạo, dựa trên việc áp dụng những công nghệ mới như: dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud). Điều này không chỉ giúp giảm số lượng những thủ phạm tiềm năng của hành vi tham nhũng, mà còn giúp giảm những cơ hội thực hiện hành vi tham nhũng của những người có chức vụ, quyền hạn. Nước ta trong thời gian gần đây, Chính phủ đã rất quyết tâm và nỗ lực trong việc tận dụng các lợi ích của công nghệ số, bằng cách xây dựng và thực hiện Chiến lược chuyển đổi số quốc gia và chính phủ điện tử, dịch vụ công trực tuyến….Đây là một hướng đi đúng, tuy nhiên chuyển đổi số hiện mới chủ yếu được thực hiện trong cải cách hành chính, và vì vậy, chưa khai thác được hết những lợi ích to lớn của công nghệ số trong PCTN. Ví dụ, một trong những ứng dụng phổ biến khác của công nghệ số là Blockchain (công nghệ tạo nên đồng tiền mã hóa Bitcoin – một trong những công nghệ đột phá, có tác động to lớn đến nhiều lĩnh vực của đời sống) cũng có thể được sử dụng trong PCTN. Thậm chí Blockchain được đánh giá là một yếu tố tiềm năng làm “thay đổi cuộc chơi” (“a game changer”) trong cuộc chiến chống tham nhũng, do công nghệ này giúp phòng chống gian lận, giả mạo và làm khả năng truy xuất nguồn gốc của tiền tệ nếu có khung pháp lý và các yếu tố hạ tầng bảo đảm cho việc sử dụng nó. Một ứng dụng khác của công nghệ số là trí tuệ nhân tạo cũng có thể áp dụng vào công tác phòng, chống tham nhũng. Cụ thể, thông qua việc sử dụng trí tuệ nhân tạo, có thể giúp giảm thiểu yếu tố con người khỏi tương tác hành chính, từ đó tránh tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Không chỉ vậy, việc sử dụng robot để giám sát hành vi tham nhũng của những người làm việc trong cơ quan công quyền.
2. Giải pháp để thúc đẩy phòng, chống tham nhũng
Một là, bảo đảm cân bằng trong cách tiếp cận bốn không, chú trọng đúng mức đến các biện pháp để cán bộ, công chức “Không cần tham nhũng” và “Không muốn tham nhũng”. Để thực hiện được mục tiêu này, cần đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước, áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động quản lý để tinh giản biên chế, qua đó có nguồn lực để cải cách tiền lương, nâng cao mức sống của đội ngũ cán bộ, công chức. Cần tăng cường giáo dục đạo đức công vụ và pháp luật PCTN cho cán bộ, công chức, đồng thời đẩy mạnh giáo dục liêm chính trong xã hội. Cần đưa vấn đề liêm chính, đạo đức công vụ và pháp luật PCTN vào trong tất cả các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và kiểm soát chặt chẽ việc tổ chức thực hiện. Cũng cần củng cố, tăng cường những nội dung liên quan đến giáo dục liêm chính trong hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng phù hợp với trình độ nhận thức và sự trưởng thành của của học sinh ở từng cấp học. Cuối cùng, cần nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy văn hoá liêm chính trong xã hội, xem như là cơ sở nền tảng để xoá bỏ tận gốc tệ nạn tham nhũng.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, cả cơ chế kiểm soát từ bên trong và cơ chế kiểm soát từ bên ngoài. Đối với cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên trong, cần xác định rõ và củng cố phương thức giám sát của cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp với cơ quan lập pháp, cũng như phương thức giám sát giữa cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp; đồng thời thành lập thêm các thiết chế giám sát cả ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, cụ thể như cơ quan bảo hiến (theo Điều 109 Hiến pháp 2013), cơ quan phòng chống tham nhũng độc lập, cơ quan nhân quyền quốc gia (để bổ trợ cho quyền khiến nại, tố cáo của người dân và các quyền khác). Đối với cơ chế giám sát quyền lực từ bên ngoài, cần thúc đẩy, tạo điều kiện cho sự tham gia thực chất và hiệu quả của nhân dân, các tổ chức xã hội và báo chí vào cuộc chiến chống tham nhũng (bên cạnh việc ngăn ngừa những hành động lợi dụng đấu tranh chống tham nhũng để vi phạm pháp luật). Trong vấn đề này, ngoài các biện pháp khác, cần tổ chức thực hiện đầy đủ các Luật Tiếp cận thông tin và Luật Tố cáo…
Ba là, nghiên cứu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, và rộng hơn là cả hệ thống chính trị, theo mô hình thể chế mới là quản trị mở và chính quyền mở. Tham gia Sáng kiến Đối tác Chính phủ mở (OGP) để tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế trong việc hiện thực hoá mô hình quản trị mở/chính quyền mở. Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động quản lý để tinh giản biên chế để có nguồn lực cải cách tiền lương, nâng cao mức sống của đội ngũ cán bộ, công chức, qua đó giảm thiểu tham nhũng một cách trực tiếp và gián tiếp (thông qua việc làm giảm động cơ tham nhũng). Thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng chính phủ số, thực hiện dịch vụ công trực tuyến, và nghiên cứu áp dụng các thành tựu khác của công nghệ số vào việc phòng ngừa và phát hiện tham nhũng.
Bốn là, đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Mỗi địa phương sẽ có những thế mạnh riêng, với phạm vi thẩm quyền của mình, chính quyền địa phương cần phát huy, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội. Việc đảm bảo tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương phải được xem là nguyên tắc căn bản trong phân cấp, phân quyền. Khi đã tăng tính chịu trách nhiệm, chính quyền địa phương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những thẩm quyền được giao, tránh việc đùn đẩy trách nhiệm hoặc trông chờ, ỷ lại vào Trung ương.
Việc phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương phải trên cơ sở chính quyền địa phương bảo đảm được năng lực, điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp. Rõ ràng, không thể phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương những việc mà bộ máy này không thể thực hiện được, vì như vậy sẽ làm mất đi tính hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ. Việc lựa chọn chủ thể quản lý phải xuất phát từ tiêu chí hiệu quả, có nghĩa là cấp nào có khả năng đạt được mục tiêu, chất lượng và yêu cầu quản lý với chi phí ít nhất và thời gian ngắn nhất thì nên giao nhiệm vụ tương ứng cho cấp đó.
Năm là, nâng cao và phát huy vai trò tích cực của báo chí, truyền thông, kiểm soát, quản lý tốt các hoạt động báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội. Các cơ quan báo chí, truyền thông cần tích cực phê phán hiện tượng tham nhũng; thông tin về những hiện tượng, biểu hiện có dấu hiệu tham nhũng; thông tin kịp thời, chính xác những vụ, việc tham nhũng đang được điều tra, xử lý,… góp phần tạo dư luận xã hội đúng đắn. Đặc biệt cần phản ánh trung thực, kịp thời, góp phần đưa chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, phản ánh đúng đắn những mặt tiêu cực trong xã hội, những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cũng như nêu gương các cán bộ, đảng viên, thực hiện nghiêm Quy định số 08-QĐ/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên. Bên cạnh đó, báo chí, truyền thông cần làm tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội; đi sâu tìm tòi, phản ánh công tác hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế – xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí; mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch.
3. Một số kiến nghị
– Cần phải xây dựng, ban hành và thực thi các cơ chế về kiểm soát quyền lực để PCTN. Mọi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn đều phải được kiểm soát chặt chẽ từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài bằng các cơ chế và quy định rõ ràng, cụ thể; quyền lực phải được ràng buộc chặt chẽ với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu, trách nhiệm đến đó; văn bản có quy định về việc thực hiện thì bắt buộc phải quy định về chế tài xử lý vi phạm; tăng nặng các chế tài pháp lý, từ xử lý kỷ luật, xử lý hành chính cho đến xử lý hình sự, bảo đảm tính nghiêm khắc và đủ sức răn đe hơn nữa đối với các vi phạm.
– Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, các cơ quan tố tụng tiếp tục chú trọng việc hoàn thiện cơ chế theo dõi, đánh giá, tổng hợp, trao đổi thông tin, dữ liệu về kết quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng đáp ứng các tiêu chí đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chú trọng đàm phán, ký kết các thỏa thuận quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống tội phạm tham nhũng và đào tạo, bồi dưỡng năng lực thực thi pháp luật cho đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên; nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong việc thu hồi tài sản của Nhà nước bị thất thoát trong các vụ án tham nhũng liên quan tới yếu tố nước ngoài; đồng thời kiên quyết, khẩn trương áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, thu hồi triệt để tài sản tham nhũng ngay trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử;
– Cơ quan tư pháp cần tăng cường phối hợp với các chủ thể liên quan, tập trung lực lượng để kết thúc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp theo đúng Kế hoạch của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tránh án tồn đọng và hoạt động tẩu tán tài sản có thể phải thi hành án trong khi hoạt động tố tụng diễn ra trong thơi gian dài, do vậy cần phải đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc tham nhũng, kinh tế đã phát hiện.
– Chính phủ, các cơ quan tư pháp Trung ương cần điều chỉnh, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, các quy định của Bộ luật hình sự về phòng, chống tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước. Theo quy định tại Điều 83 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 trong Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng tuy nhiên hiện tại quy định này vẫn chưa được thực thi một cách triệt để trong thực tế, do vậy Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an sớm kiện toàn đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng để góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng.
Chiến lược quốc gia về PCTN đến năm 2020 của Chính phủ cũng xác định “PCTN là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng Nhân dân PCTN là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới”. Để đạt được hiệu quả của công tác phòng chống TNTN bao gồm các hoạt động của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, chặt chẽ, toàn diện, thường xuyên của Đảng, Chính phủ và các địa phương tạo thành thế trận trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt.
Để củng cố tư duy lý luận trong lĩnh vực này, cần có thêm những nghiên cứu chuyên sâu không chỉ về những vấn đề trực tiếp, mà cả những vấn đề có liên quan đến PCTN. Đồng thời, cần có sự quyết đoán cao của các nhà chính trị trong việc chấp nhận và quyết định áp dụng những tư duy mới mà có thể khác biệt, thậm chí ngược lại với nhận thức kinh nghiệm trước đó về PCTN. Sự đổi mới tư duy lý luận, cùng với quyết tâm chính trị cao của Đảng, sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân và cộng đồng quốc tế là những bảo đảm cho việc nâng cao hiệu quả PCTN ở nước ta trong thời gian tới.
TS. Đặng Thành Lê
Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học hành chính
Học viện Hành chính Quốc gia