1. Cơ sở xác lập vị trí, vai trò của Đảng trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng
Kiểm soát quyền lực là việc sử dụng cơ chế, biện pháp để kiểm tra, giám sát việc sử dụng quyền lực, mục tiêu là “phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên”[1], đảm bảo sự ổn định chính trị, giữ vững vị trí và tăng cường vai trò của Đảng cầm quyền, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ chính trị. “Tha hóa là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực”, còn quyền lực thì còn phải kiểm soát, kiểm soát quyền lực song hành với sử dụng quyền lực, đối tượng chính của kiểm soát quyền lực là những tổ chức và cá nhân nắm quyền lực, có vị trí, chức vụ, quyền hạn lớn, quyền lực càng lớn thì càng phải kiểm soát chặt chẽ. Đó là một công cuộc lớn của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, có sự tham gia của nhiều chủ thể kiểm soát và đối tượng chịu sự kiểm soát, có cơ chế và biện pháp, có lực lượng và công cụ. Mỗi chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực có một vị trí, vai trò gắn với quyền hạn, nhiệm vụ và có những mối quan hệ với các chủ thể khác. Vị trí và vai trò của mỗi chủ thể đều do những yếu tố khách quan và chủ quan quy định; vị trí gắn liền với năng lực, trình độ, bản lĩnh, trách nhiệm; vai trò được thể hiện thông qua chức năng được quy định trong hiếp pháp, luật pháp và có những phương thức, công cụ để thực hiện. Mỗi đối tượng có thể chịu sự kiểm soát của nhiều chủ thể, một chủ thể phải kiểm soát nhiều đối tượng, có nhiều hình thức và biện pháp để kiểm soát đối tượng, dựa theo chức năng, nhiệm vụ và sự phân quyền, phân cấp.
Phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh chống quan liêu, lạm quyền, lộng quyền nhằm trục lợi, giải pháp từ gốc là chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhằm đảm bảo sự trong sạch và nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng. Kiểm soát quyền lực là một giải pháp lớn trong chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng.
Từ đó, có thể hiểu, kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh chống “tha hóa” quyền lực, quan liêu, lạm quyền, lộng quyền, đảm bảo việc sử dụng quyền lực được đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, ngăn chặn lạm quyền, lộng quyền, cậy quyền, cậy thế làm trái quy định để trục lợi, tham ô, nhũng nhiễu, vi phạm các nguyên tắc dân chủ trong Đảng, pháp luật Nhà nước và quyền lợi của Nhân dân.
Kiểm soát quyền lực nhằm Phòng, chống tham nhũng trong chế độ Đảng cầm quyền ở nước ta có 03 khu vực/chủ thể/đối tượng chính, dựa theo cơ chế được thiết lập đó là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Nội dung kiểm soát quyền lực nhằm Phòng, chống tham nhũng tập trung ở 03 nội dung lớn đó là kiểm soát về thể chế, cơ chế (đường lối, chủ trương, chính sách, luật pháp, quy định); kiểm soát về con người (kiểm soát việc sử dụng quyền lực của các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cá nhân); kiểm soát về công cụ thực thi, bảo vệ quyền lực, chống tham nhũng (kiểm soát đối với những lực lượng chức năng bảo vệ quyền lực, chống tham nhũng và những quy định, quy trình trong theo dõi, giám sát, thanh tra, điều tra, kiểm toán, thi hành án và những phương tiện sử dụng quyền lực khác trong xã hội như báo chí, truyền thông, nền tảng mạng xã hội).
Mọi cơ chế và thiết chế quyền lực đều có nguồn gốc từ nhân dân, nhưng không phải giai cấp nào giành được quyền lực chính trị cũng đều sử dụng quyền lực đó vì nhân dân. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quyền lực chính trị do Đảng là chủ thể nắm giữ và quyết định, dựa trên nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là Đảng Cộng sản nắm giữ. Quyền lực nhà nước do chủ thể là Nhà nước nắm giữ, có sự thống nhất và phân công, phối hợp kiểm soát giữa 03 cơ quan quyền lực là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước do Đảng Cộng sản tổ chức ra và lãnh đạo, mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc. Quyền lực nhà nước thực sự thuộc về Nhân dân. Nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực nhà nước và xã hội, thông qua Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc cùng với các thành viên của Mặt trận, Nhân dân thực thi quyền lực của mình, theo dõi và giám sát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói “Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”[2]. Trong kiểm soát quyền lực nhằm PCTN, các chủ thể cần phải tuân thủ các nguyên tắc, cơ chế phân quyền đã được quy định trong Hiếp pháp năm 2013.
Cơ sở xác lập vị trí và vai trò của Đảng: Trong sự nghiệp cách mạng nói chung, trong hệ thống chính trị và trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng nói riêng, vị trí và vai trò của Đảng do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan quy định.
Những yếu tố khách quan, một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về đảng cộng sản cầm quyền và xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, xây dựng Đảng trở thành đạo đức, văn minh, chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, lạm quyền, tham ô và xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đó là những cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng hết sức sâu sắc, định hướng cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xác lập vị trí, vai trò đối với cách mạng cũng như trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Đảng khẳng định vị trí và vai trò của mình không chỉ bằng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và thực tiễn hành động mà còn dựa trên cơ sở pháp lý. Điều 4 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Đảng cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam … là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội”; “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”[3]. Hiến pháp năm 1992 tiếp tục quy định vai trò lãnh đạo của Đảng tại Điều 4 và bổ sung quy định “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều này cho thấy việc kiểm soát quyền lực đối với tổ chức đảng đã sâu hơn một bước. Về tính chất dân tộc của nhà nước được quy định tại Điều 5, về quyền lực, nguồn gốc, tổ chức và nguyên tắc hoạt động, Điều 6 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”[4].
Kế thừa giá trị và tinh thần của các bản hiến pháp đi trước, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 có quy định:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Điều 2 có một số nội dung quy định về quyền lực của nhân dân trong nhà nước: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, “do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Điều 8 có những nội dung quy định tổ chức và hoạt động, quản lý của nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật, nguyên tắc tập trung dân chủ, tinh thần phục vụ nhân dân và “chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.
Điều 9 có nội dung quy định về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam “đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân”; “giám sát, phản biện xã hội”[5].
Như vậy, Hiến pháp của Việt Nam đã khẳng định cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ”, cơ chế sử dụng quyền lực, giám sát, KSQL của các chủ thể trong xã hội. Cùng với quy định của Hiến pháp về vị trí, vai trò của Đảng, trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng Đảng lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện dựa trên những quy định của pháp luật, nhất là Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
Sự ra đời của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018[6] đánh dấu mốc quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, trong đó Điều 2 chỉ ra các hành vi tham nhũng như lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, chiếm đoạt tài sản, hành vi lối lộ, nhũng nhiễu; Điều 7 quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Quốc hội và một số cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong việc giám sát công tác phòng, chống tham nhũng.
Cùng với cơ sở pháp lý trong nước, Đảng thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng theo tinh thần đã cam kết với quốc tế về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam. Qúa trình xác lập vị trí, vai trò của Đảng còn gắn liền với sự ủng hộ, hậu thuẫn to lớn của Nhân dân và cộng đồng quốc tế.
Yếu tố chủ quan, thực tiễn lãnh đạo cách mạng gắn liền với sự hy sinh của đội ngũ cán bộ, đảng viên đã khẳng định năng lực, trình độ, bản lĩnh và uy tín của Đảng và được nhân dân thừa nhận, tiếp tục kế thừa và nâng cao vị trí, tăng cường vai trò và sứ mệnh dẫn dắt dân tộc trong thời kỳ mới, bao hàm cả trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng đó là nhận thức và ý chí của Đảng. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về chống “tha hóa” quyền lực, phòng và chống tham nhũng, bảo vệ sinh mệnh chính trị của Đảng và sự tồn vong của chế độ, Đảng quyết tâm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, kế thừa truyền thống vẻ vang, tiếp tục khẳng định năng lực, trình độ, uy tín và vai trò to lớn của mình trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng.
Tóm lại, việc làm rõ một số nội dung về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng cùng với những cơ sở xác lập vị trí và vai trò của Đảng trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức cho việc thực hành kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.
2. Vị trí và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng chống tham nhũng
Vị trí và vai trò của Đảng trong công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng được thể hiện ở 03 phạm vi kiểm soát là kiểm soát quyền lực chính trị, kiểm soát quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhân dân, có 2 hình thức kiểm soát là kiểm soát bên trong và kiểm soát bên ngoài, mỗi hình thức và phạm vi kiểm soát đều tiến hành trên 3 phương diện là: thể chế, cơ chế; con người và công cụ. Vấn đề kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng nói chung đã được nghiên cứu nhiều, tuy nhiên đi sâu nghiên cứu về vị trí và vai trò của Đảng thì một số vấn đề cần làm rõ ở đây là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Đảng với tư cách là chủ thể đồng thời là đối tượng gắn liền với những thuận lợi và khó khăn, thách thức cùng với giải pháp, từ đó tạo cơ sở cho việc thực hành kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.
Ở phạm vi kiểm soát quyền lực chính trị của Đảng: Đảng là một thực thể đứng ở hai tư cách, là chủ thể đồng thời là đối tượng của kiểm soát, đây là hình thức kiểm soát nội bộ/tự kiểm soát. Ở tư cách chủ thể, thực hiện chức năng lãnh đạo, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức kiểm soát việc sử dụng quyền lực chính trị trong các tổ chức đảng và đảng viên.
Trên phương diện kiểm soát thể chế, cơ chế, nội dung là kiểm tra, giám sát việc xây dựng đường lối, chủ trương, quy định, điều lệ của Đảng nhằm đảm bảo đúng với quan điểm, đường lối chính trị, không chệch hướng XHCN, không có khoảng trống, không tạo điều kiện cho tham nhũng; thể chế, cơ chế kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng phải đảm bảo khoa học, dân chủ, chặt chẽ và ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu, tình hình thực tiễn. Nhiệm vụ của chủ thể là theo dõi, giám sát và tổ chức kiểm tra việc xây dựng, ban hành quy định về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Vì Đảng là lực lượng duy nhất nắm quyền lực chính trị nên quyền hạn trong kiểm soát nội bộ là tuyệt đối, không chịu sự chi phối, sức ép, quy định nào từ chủ thể bên ngoài. Trách nhiệm của chủ thể là tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả của việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng.
Về hạn chế, trước sự biến động nhanh của mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, nhiều vấn đề mới nảy sinh, khôn lường, phức tạp, chồng chéo, do đó dễ mắc phải sai lầm, ngộ nhận, hoặc giáo điều, sơ cứng trong nhận thức, lý luận làm ảnh hưởng đến chất lượng nội dung các chiến lược, kế hoạch, mục tiêu, giải pháp phát triển đất nước, ảnh hưởng đến việc xây dựng các quy định về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Từ đó dẫn đến việc thường xuyên phải rà soát, điều chỉnh, bổ sung và ban hành văn bản mới, dẫn đến việc thực thi quyền lực và kiểm soát quyền lực gặp khó khăn, dễ mắc phải thiếu sót. Mặt khác, ở vị trí chủ thể, quyền lực của Đảng bao phủ rộng, uy danh lớn, một thời kỳ dài ý chí chủ quan vượt cả quy luật khách quan, do đó không ít tổ chức đảng, đảng viên có xu hướng tâm lý trông chờ, ỷ lại, thiếu chủ động, hoặc lạm dụng, lợi dụng quyền lực Đảng để trục lợi, tham ô, nhũng nhiễu. Quyền lực chính trị của Đảng có lúc, có nơi chi phối, can thiệp sâu vào cả các hoạt động chuyên môn của cơ quan, đơn vị của các chủ thể khác. Trong điều kiện Đảng là lực lượng duy nhất nắm quyền lực chính trị, vị trí và vai trò to lớn của Đảng cũng tạo ra sự kỳ vọng và đòi hỏi rất lớn từ nhân dân về tính hiệu quả của việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng.
Về giải pháp, để kiểm soát tốt quyền lực cho mục tiêu phòng, chống tham nhũng trên phương diện này, Đảng cần lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao trình độ lý luận, năng lực xây dựng dự thảo chiến lược, nghị quyết, chính sách cho các bộ phận tham mưu, giúp việc và BCH của Đại hội đại biểu các cấp; nâng cao khả năng nhận thức sâu sắc, phát hiện, lý giải, khái quát hóa và tìm ra bản chất, quy luật vận động của các hiện tượng, quá trình trong đời sống chính trị trong nước và quốc tế để xây dựng định hướng chung, hình thành đường lối, chủ trương, giải pháp chính trị khoa học, đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phòng, chống tham nhũng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế tạo cơ sở cho việc đổi mới, sắp xếp cơ cấu tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Đảng, bộ máy nhà nước trong vận hành quyền lực, tránh tiêu cực, hạn chế và tránh phải sửa đổi, ban hành nhiều văn bản. Các Nghị quyết, Chỉ thị, Quy định, Kết luận… phải thể hiện đúng chức năng lãnh đạo, không có những văn bản quy định có nội dung vượt quá chức năng, quyền hạn, can thiệp, định hướng sai hoặc quá ngắn hạn, chồng chéo, rắc rối, thiếu sót, giáo điều, gò ép thực tiễn đối với hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên và hoạt động của bộ máy nhà nước, xã hội trong vận hành quyền lực phòng, chống tham nhũng.
Về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trên phương diện thực thi quyền lực, nội dung của kiểm soát là tiến hành kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên trong việc thực thi quyền lực chính trị nhằm ngăn chặn, phòng ngừa và đấu tranh chống lại các hành vi trục lợi, chấn chỉnh, xử lý các trường hợp vi phạm quy định về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Căn cứ để hướng dẫn kiểm tra, giám sát là các tài liệu văn kiện, nghị quyết, Điều lệ Đại hội, các Nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của BCHTW, BCT, BBT ở cấp Trung ương, các văn bản quy định ở cấp ủy địa phương và cơ sở, theo nguyên tắc văn bản cấp trên hướng dẫn kiểm tra tại chỗ và hướng dẫn kiểm tra đối với cấp dưới, văn bản quy định của cấp dưới phải thống nhất với các quy định của cấp trên và căn cứ vào quy định của pháp luật cũng như dấu hiệu trên thực tế của những hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng. Nhiệm vụ của chủ thể kiểm soát trên phương diện này là thường xuyên, định kỳ theo dõi và tổ chức kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm. Quyền hạn trong kiểm tra, giám sát căn cứ theo quy định dành cho các cấp, các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.
Hạn chế kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trên phương diện này trong thời gian qua, trước hết là ở việc xác định căn cứ để kiểm soát, tài liệu, quy định thường chồng chéo, thiếu cụ thể, một hành vi nhưng có nhiều căn cứ có thể xử lý, tạo ra tính “chiết trung” trong lựa chọn căn cứ để xem xét, đánh giá và xử lý, tạo kẽ hở để móc ngoặc, dàn xếp đánh giá và xử lý mức độ vi phạm, theo hướng nhẹ nhất. Tiếp đến là vấn đề nguyên tắc thực thi quyền hạn kiểm tra, giám sát, cấp trên có quyền theo dõi, kiểm tra cấp dưới, trong khi cấp dưới không đủ năng lực, thẩm quyền kiểm tra cấp trên. Mặt khác, quyền lực thực sự nằm trong tay tập thể và người đứng đầu, trường hợp người đứng đầu và tập thể suy thoái thì việc kiểm tra, giám sát đối với cấp dưới, đảng viên sẽ rất khó khăn, không hiệu quả, nặng về hình thức, hoặc mang tính đối phó, nhất là khi đã hình thành “nhóm lợi ích” trong tập thể. Một điều khó khăn nữa là, tâm lý nể nang, ngại va chạm do quen biết, tình cảm, do thân thế, do quan niệm,… dẫn đến đùn đẩy, né tránh, bao che gây khó khăn cho việc kiểm tra, giám sát.
Giải pháp để khắc phục hạn chế trong hoạt động kiểm soát này là cần đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá, kiểm soát đối với các hành vi thực thi quyền lực chính trị của Đảng; tăng tính công khai, minh bạch trong kiểm tra, giám sát; tăng cường phối hợp chặt chẽ trong kiểm tra, giám sát tránh chồng chéo; tăng tính trách nhiệm tập thể của cấp ủy trong quy định, kết luận về kiểm tra, giám sát; khuyến khích và trao quyền kiểm soát cho tổ chức đảng cấp dưới và của đảng viên đối với cấp trên và người đứng đầu; phát huy dân chủ ở cơ sở, đổi mới hình thức sinh hoạt đảng, tăng cường kiểm tra, uốn nắn đối tượng là đảng viên giữ chức vụ cao và đối với người đứng đầu cấp ủy, kể cả cán bộ đã nghỉ hưu; nghiêm túc, chặt chẽ hơn trong thực hiện quy định về kê khai tài sản, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên khi để người thân gia đình có những hành vi liên quan đến tham nhũng; xử lý nghiêm minh mọi tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu khi vi phạm, đúng với nguyên tắc “không có ngoại lệ”, “không có vùng cấm”, chức vụ càng cao càng phải xử nghiêm minh; phát huy vai trò kiểm soát của các chủ thể bên ngoài.
Kiểm soát quyền lực chính trị để phòng, chống tham nhũng trên phương diện kiểm tra, giám sát của Đảng, nội dung của việc kiểm soát là kiểm tra, giám sát việc xây dựng và ban hành quy định, quy chế kiểm tra, giám sát và việc tổ chức, thực hiện kiểm tra, giám sát theo chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm, quy định, quy trình của các cơ quan chức năng của Đảng, mục đích là ngăn chặn tiêu cực, lạm quyền, lợi dụng quyền kiểm tra, giám sát, kỷ luật để thực hiện hành vi sai trái, trục lợi. Nhiệm vụ của chủ thể là xây dựng và làm trong sạch các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát của Đảng, lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đúng với thẩm quyền, trách nhiệm, không để lạm dụng, lợi dụng quyền hạn kiểm tra, giám sát để trục lợi, tham nhũng.
Hạn chế, khó khăn ở phương diện kiểm soát này là việc kiểm soát thực sự không dễ dàng, trước hết là do đây là những cơ quan chuyên môn và cán bộ có trình độ, kinh nghiệm, hiểu rõ, nắm chắc những quy định, quy trình về kiểm tra, giám sát và những kẽ hở của quy định, quy trình. Bên cạnh đó những người đứng đầu các cơ quan này thường là thành viên trong BCH, BCT, BBT, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng ở cấp Trung ương, thành viên trong cấp ủy, thường vụ ở địa phương, cơ sở – nắm quyền lực lớn. Do đó, việc kiểm soát phải dựa vào cấp trên có thẩm quyền cao hơn, như ở Trung ương là vai trò Đại hội đại biểu toàn quốc, BCH Trung ương, TBT và phụ thuộc vào bản lĩnh, tính tự giác, tiên phong, gương mẫu của những người đứng đầu các cơ quan này.
Về giải pháp, làm trong sạch và sắc bén “thanh bảo kiếm” của Đảng, từ người đứng đầu cho đến cả bộ máy của các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát đó là yêu cầu và biện pháp căn cốt, quan trọng hàng đầu để việc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng được triển khai hiệu quả xuống cấp dưới trong toàn hệ thống tổ chức của Đảng. Để kiểm soát hiệu quả với các cơ quan này, vấn đề cần tập trung trước hết là việc động viên tinh thần, quán triệt quan điểm, khen thưởng kịp thời, sau là đảm bảo điều kiện sống tốt cho cán bộ, nhân viên, để họ an tâm, chuyên tâm, trong sáng, không có tư tưởng tham nhũng. Đặc biệt cần quan tâm và lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quy định và quy trình về nhân sự cấp cao, làm tốt hơn công tác nhân sự Đại hội ở các cấp, đúng nguyên tắc thận trọng, bài bản, công tâm, khoa học, dân chủ, kỉ cương, kỷ luật để chọn và bố trí được đúng người, đúng việc trong bộ máy Đảng và nhà nước, không để xảy ra tình trạng đại hội xong, bố trí xong nhưng sau lại phát hiện vi phạm nghiêm trọng về chính trị và pháp luật. Một yêu cầu, đề xuất để tăng tính hiệu quả trong kiểm soát đối với cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát của Đảng là cần xây dựng các cơ quan này theo hướng độc lập, chuyên sâu từng mảng, lĩnh vực, hạn chế để những người lãnh đạo các cơ quan này đồng thời là thành viên trong các tổ chức cấp cao của Đảng. Bởi đây chỉ là các cơ quan chức năng kiểm soát, còn quyền lực thực sự nằm ở quyết định cuối cùng thuộc về các tổ chức cấp cao và người đứng đầu của các cơ quan, tổ chức đó của Đảng.
Với tư cách là đối tượng chịu sự kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân thủ, chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức kiểm tra, giám sát. Mọi hoạt động sử dụng quyền lực chính trị liên quan đến tiền bạc, ngân sách, lợi ích vật chất, kể từ trong nước cho đến hoạt động hợp tác, ngoại giao, công tác ở nước ngoài đều phải chấp hành nghiêm túc những quy định về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng.
Có thể thấy, vị trí của Đảng trong việc kiểm soát quyền lực chính trị nhằm phòng, chống tham nhũng đồng thời là chủ thể và đối tượng sẽ vừa có thuận lợi, vừa có không ít khó khăn, thách thức. Về thuận lợi, Đảng cầm quyền có ưu thế là tính tập trung quyền lực, có kinh nghiệm và trình độ trong việc phát huy sức mạnh của các lực lượng và nhân dân khi thực hiện một nhiệm vụ quan trọng nào đó, có thể lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng của Đảng, nhà nước và nhân dân nhanh chóng xây dựng tổ chức và huy động nguồn lực tập cho kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Về khó khăn, đây là cuộc đấu tranh nội tại, tất yếu, khách quan trong sự phát triển, chống lại thói hư, tật xấu, tha hóa, biến chất, chống “giặc nội xâm”,“giặc ở trong lòng”. Việc kiểm tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử đối với đối tượng “tha hóa” quyền lực rất khó khăn, phức tạp, bởi đối tượng thường là những người có chức vụ, quyền hạn lớn, có chân rết, có móc ngoặc sâu, tinh vi, có ảnh hưởng lớn đối với cấp dưới và xã hội nên khả năng đối phó, né tránh, đổ lỗi, bao che, nể nang đã trở thành những rào cản trong kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng.
Để vượt qua những rào cản vừa nêu, ngoài những giải pháp đã nêu trên từng phương diện thì Đảng cần chú trọng đến hoàn thiện các quy định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và tổ chức đối với 3 phương diện kiểm soát nêu trên. Phát huy vai trò và chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện phương thức kiểm soát của chủ thể bên ngoài (Nhà nước và Nhân dân) gắn liền với quy định của hiến pháp, luật pháp; theo dõi, giám sát chặt chẽ hành vi sử dụng quyền lực của tổ chức đảng, đảng viên và những đảng viên có người thân gia đình hoạt động kinh doanh liên quan đến ngân sách, dự án, công trình đầu tư công; khuyến khích việc tố cáo, kiến nghị và kịp thời xem xét khi thấy có dấu hiệu vi phạm; phát huy vai trò của truyền thông, báo chí, dư luận xã hội trong giám sát, phản biện; răn đe, uốn nắn từ sớm, từ xa kết hợp với chăm lo giáo dục, đổi mới phương pháp giáo dục tư tưởng, chính trị trong các trường chính trị và hành chính, đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền về văn hóa chính trị, văn hóa công vụ, đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên theo hướng sát thực tế, tăng tính hiệu quả, bám sát vào nội dung kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng; cần có những biện pháp thử thách, kiểm tra một cách khoa học, khách quan, thận trọng về năng lực, bản lĩnh, phẩm chất của đội ngũ cán bộ nguồn trong Đảng.
Trong bối cảnh tham nhũng xảy ra ở các cấp với mức độ nghiêm trọng, sự tha hóa quyền lực đến mức báo động, các giải pháp đổi mới và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, luật pháp, sắp xếp, tổ chức lại bộ máy Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền, đổi mới công tác cán bộ, cải cách tư pháp, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đó là những biện pháp vĩ mô, khoa học, chặt chẽ, khá toàn diện tuy nhiên để hiệu quả hơn thì cần chú trọng về giải pháp xây dựng nền tảng tư tưởng, văn hóa kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong xã hội. Để thực hiện giải pháp này, cần phát huy vai trò của truyền thông, mạng xã hội và vai trò của văn hóa nghệ thuật, hiệu ứng phim ảnh, bằng cách chú trọng hơn vào nhiệm vụ truyền tải những thông điệp về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng: ca ngợi những tấm gương sáng vì dân, vì nước, không tham quyền, cố vị được nhân dân yêu mến, kính trọng; khinh ghét tham nhũng, tảy chay tham nhũng, bè phái, “nhóm lợi ích”, cục bộ, giả dối; cổ vũ liêm chính, trừng trị nghiêm những kẻ lộng quyền, lạm quyền; hậu quả “tha hóa” quyền lực, tham nhũng,… nhằm xây dựng nếp nghĩ, hình thành tư tưởng, văn hóa tích cực trong xã hội, đẩy lùi những tư tưởng tiêu cực, tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển lành mạnh lâu dài của xã hội và hình thành văn hóa, lối sống, làm việc văn minh, văn hóa, liêm chính, tôn trọng quyền lực của Nhân dân.
Ở phạm vi kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước, Đảng là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua chức năng lãnh đạo và là đối tượng chịu sự kiểm soát của nhà nước thông qua hiến pháp, pháp luật. Với tư cách của người lãnh đạo và tổ chức ra nhà nước, vai trò của Đảng là phải kiểm soát được việc thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng đối với nhà nước và bằng cách xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về Nhân dân, các cơ quan quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đảng lãnh đạo, định hướng và kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua đường lối, chủ trương và công tác cán bộ. Ở vị trí là đối tượng chịu sự kiểm soát của chủ thể Nhà nước, mọi tổ chức đảng và đảng viên cũng như cả xã hội sống và làm việc phải tuân theo quy định của hiến pháp và luật pháp.
Ở vai trò chủ thể, Đảng kiểm soát quyền lực nhà nước trên 03 phương diện quyền lực của Nhà nước. Đối với quyền lập pháp, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội, xây dựng luật pháp, chính sách nói chung trong đó có luật pháp, chính sách về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, xây dựng và hoàn thiện các luật liên quan đến kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Công chức, viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước, Bộ Luật tố tụng dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Luật Thi hành án hình sự… ngăn chặn việc lạm quyền, lộng quyền để trục lợi, tham nhũng. Về kiểm soát quyền lực hành pháp, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, phân cấp, phân quyền, cải cách nền hành chính, tinh giản biên chế, kiện toàn các cơ quan chức năng như Thanh tra, Kiểm tra, Kiểm toán. Đảng kiểm soát quyền lực tư pháp để ngăn chặn lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm trục lợi, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Kiểm soát hoạt động tư pháp để phòng, chống tham nhũng bằng cách theo dõi, giám sát, kiểm tra hoạt động và chỉ đạo các tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong lĩnh vực tư pháp phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Ở phạm vi kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong nhân dân, Đảng là chủ thể kiểm soát quyền lực của nhân dân thông qua các lực lượng, phương tiện của Đảng và Nhà nước và xã hội. Ở phạm vi này Đảng cũng là đối tượng chịu sự kiểm soát của Nhân dân, thông qua bộ máy nhà nước và các tổ chức đại diện của Nhân dân và thông qua việc theo dõi, giám sát, kiến nghị trực tiếp của công dân, xã hội về những hành vi của tổ chức đảng, đảng viên.
Trong vai trò chủ thể, để Nhân dân thực hiện và phát huy quyền lực của mình, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và Nhân dân thực hiện vai trò đại diện và tạo điều kiện để công dân trực tiếp tham gia kiểm soát quyền lực. Cụ thể, thông qua các Ban của Đảng như Dân vận, Tuyên giáo; thông qua các cơ quan chức năng, chuyên môn và các thiết chế văn hóa, xã hội của Nhà nước; thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội… Đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động, tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục đối với xã hội, theo phương châm sống và làm việc đúng với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tránh để cho các thế lực phản động xúi giục, chống phá làm mất ổn định chính trị, xã hội. Vận động, tuyên truyền nhân dân tích cực phát huy vai trò, quyền làm chủ, tham gia bầu cử, ứng cử và kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội đối với những chính sách kinh tế, xã hội và đối với hoạt động của chính quyền. Đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị, như xây dựng cơ cấu đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân đảm bảo cân đối, hài hòa về giới, về dân tộc, tôn giáo, giai cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước đảm bảo đủ năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức công vụ. Đảng chỉ đạo các cơ quan quyền lực nhà nước tăng cường giám sát lẫn nhau trong việc thực thi quyền lực, đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân.
Yêu cầu các đại biểu Quốc hội, nhất là những người nắm giữ chức vụ cao trong bộ máy nhà nước tăng cường tiếp xúc cử tri. Yêu cầu và chỉ đạo đẩy mạnh công tác tiếp công dân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền các cấp, tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo từ người dân. Phát huy dân chủ trong xã hội đồng thời giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, thượng tôn pháp luật, không cho phép các hành vi sai trái trong xã hội đi ngược lại lợi ích chung của đất nước, xã hội. Yều cầu và chỉ đạo truyền thông, báo chí phát huy vai trò tích cực phản biện, giám sát và phản ánh kịp thời những hiện tượng tiêu cực, lạm quyền, tham nhũng.
Đảng lãnh đạo, chỉ đạo việc hoàn thiện cơ chế hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị theo hướng công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình nhằm tạo điều kiện tiên quyết cho việc kiểm soát, chống “tha hóa” quyền lực; Chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, đề ra chủ trương và chỉ đạo việc phân cấp, phân quyền trong bộ máy Nhà nước và yêu cầu Nhà nước tạo điều kiện để người dân tham gia ngày càng nhiều hơn vào công việc quản lý của nhà nước, theo phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”; Chỉ đạo đẩy mạnh cải cách hành chính và dịch vụ công… Đảng thường xuyên quán triệt quan điểm và hành vi của các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong quan hệ với nhân dân, luôn “gắn bó máu thịt” với nhân dân, “lấy dân làm gốc”, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Đó là nhận thức, ý thức tự giác của Đảng về vị trí, vai trò là đối tượng chịu sự kiểm soát quyền lực của nhân dân. Tất cả những hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng nhằm kiểm soát và đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, ngăn chặn lạm quyền, lộng quyền, tham nhũng.
Thực tiễn hiện nay, trong vai trò chủ thể, Đảng đã và đang nỗ lực lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan Đảng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, tổ chức, công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán và bước đầu đã ban hành được một số văn bản quan trọng, tạo cơ sở cho việc thực hành KSQL – phòng, chống tham nhũng. Ngày 02-6-2021 BBT ra Chỉ thị số 04-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Ngày 25-10-2021, Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khoá XIII ra Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Ngày 28-4-2022 BCT ban hành Quy định số 65-QĐ/TW về luân chuyển cán bộ. Ngày 18-8-2022 BCH Trung ương ban hành Quy định số 80-QĐ/TW về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Ngày 09-11-2022 BCH Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Ngày 02-02-2023, BCT ban hành Quy định số 96-QĐ/TW về “lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị”, quy định chỉ rõ các nguyên tắc, đối tượng, tổ chức nơi lấy phiếu, cách thức, tiêu chí lấy phiếu, công khai, sử dụng kết quả phiếu tín nhiệm đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.Việc KSQL – PCTN ngày càng được đẩy mạnh, siết chặt với những quy định mới. Ngày 6-7-2022, BCT ban hành Quy định số 69-QÐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, trong đó có những quy định kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành, chống chạy chức, chạy quyền. Ngày 11-7-2023 BCT ban hành Quy định số 114-QĐ/TW thay thế cho Quy định 205-QĐ/TW ngày 23-9-2019, quy định mới có nhiều nội dung cụ thể, chặt chẽ, toàn diện nhằm tăng cường KSQL – PCTN, tiêu cực trong công tác cán bộ. Quy định gồm 05 Chương, 16 Điều quy định 19 hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ, cụ thể hơn Quy định đã chỉ rõ những hành vi được gọi là tham nhũng, tiêu cực; trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ và xử lý vi phạm; đối tượng áp dụng; giải thích rõ quyền lực và việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là gì, chỉ ra 08 hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, 06 hành vi chạy chức, chạy quyền và 05 hành vi tiêu cực khác; trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo; trách nhiệm của thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo; trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo; trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan tham mưu; trách nhiệm của cán bộ tham mưu; trách nhiệm của nhân sự; trách nhiệm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; việc xử lý trách nhiệm khi vi phạm kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và xử lý hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Tại Quy định này, trong vai trò là đối tượng chịu sự kiểm soát quyền lực, Đảng cũng yêu cầu và chỉ đạo “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và các cơ quan dân cử thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ thì kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiểm tra và xử lý, đồng thời giám sát việc thực hiện kiến nghị theo quy định; Cán bộ, đảng viên, đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân có trách nhiệm phát hiện và lắng nghe ý kiến của Nhân dân để phản ánh, tố cáo, cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền về hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”[7].
Để kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán[8], ngày 27-10-2023 Bộ Chính trị ban hành Quy định số 131-QĐ/TW, để sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy chế làm việc, quy định, quy trình nghiệp vụ để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các vi phạm, nhất là hành vi lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, với 22 hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán. Cùng ngày, Bộ Chính trị ban hành Quy định 132-QĐ/TW ngày 27-10-2023 về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án[9].
Trong giai đoạn 2012 – 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; đã kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 04 ủy viên Bộ Chính trị, nguyên ủy viên Bộ Chính trị; 29 ủy viên Trung ương, 118 nguyên ủy viên Trung ương Đảng; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (cao hơn gấp 4 lần so với nhiệm kỳ khóa XI và bằng gần một nửa số cán bộ cấp cao bị xử lý của nhiệm kỳ khóa XII), trong đó có 08 ủy viên Trung ương, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng. Đây là một bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng. Các ngành Thanh tra, Kiểm toán có nhiều cố gắng, công tâm, khách quan, làm rõ các sai phạm; đã xử lý và kiến nghị xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có liên quan, thu hồi nhiều tài sản cho Nhà nước… Từ năm 2012 đến nay, qua công tác thanh tra, kiểm toán đã xử lý, thu hồi được hơn 975 nghìn tỉ đồng, gần 76 nghìn ha đất; xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân; chuyển cho cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu phạm tội; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế hơn 2.000 văn bản, trong đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp. Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế được tiến hành một cách kiên trì, kiên quyết, không khoan nhượng, không nương nhẹ, không làm oan, sai; không bỏ lọt tội phạm; rất nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn, nhân ái, có lý, có tình… Kết quả phát hiện, điều tra và xử lý tham nhũng trong thời gian qua càng chứng tỏ chúng ta đã thực hiện rất nghiêm tư tưởng chỉ đạo và quan điểm: “Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sự tác động, sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào”[10].
Theo tổng kết của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tại phiên họp lần thứ 24, ngày 16-8-2023 thì kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay là: “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo đã tổ chức 03 Hội nghị toàn quốc về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ban hành hơn 100 văn bản để tăng cường công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTNTC (tăng 2 lần so nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng). Quốc hội đã thông qua 24 luật, pháp lệnh và ban hành nhiều nghị quyết quan trọng; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 335 nghị định, 86 quyết định; các bộ, ngành ban hành gần 1.800 thông tư, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực”; “Điểm mới trong nhiệm kỳ này là, thực hiện chủ trương của Trung ương, cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng đã kiên quyết làm rõ trách nhiệm chính trị của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý để xảy ra tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng trong lĩnh vực được giao quản lý, phụ trách”. Để công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, hiệu quả TBT Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trọng tâm là sớm hoàn thiện thể chế về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực”; “khẩn trương ban hành Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2030”[11].
Nhìn vào thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng hiện nay có thể thấy, Đảng đang khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và ban hành các văn bản quy định về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng ngày càng có chất lượng hơn, cuộc chạy đua để “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” cơ chế đã có những khởi sắc, tạo ra động lực to lớn và hình thành xu thế không thể đảo ngược. Để thời gian tới, mọi hoạt động kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng của hệ thống chính trị và Nhân dân có cơ sở pháp lý, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục thể chế hóa, hoàn thiện luật pháp về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng. Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Trung ương và việc khẩn trương tổ chức, triển khai thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng ở các bộ, ngành, địa phương, sớm đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.
Tóm lại, từ những yếu tố quy định việc xác lập vị trí và vai trò, Đảng đang quyết tâm khẳng định tính tiên phong, năng lực, uy tín, trách nhiệm và phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, chủ động thực hành kiểm soát quyền lực chính trị nội bộ, tăng cường lãnh đạo kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và nhân dân, tất cả nhằm mục tiêu “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” cơ chế, ngăn chặn “tha hóa” quyền lực, phòng, chống tham nhũng, đảm bảo sự ổn định chính trị, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ chế độ, đảm bảo quyền lực của chế độ thực sự thuộc về nhân dân. Để công cuộc kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng ngày càng đạt được hiệu quả hơn nữa, các chủ thể kiểm soát, đặc biệt là các cơ quan chức năng về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước cần nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc thống nhất hành động, phân cấp, phân quyền, hoàn thiện thể chế, cơ chế, tổ chức bộ máy, nhân sự, nguồn lực, công cụ; khắc phục các mặt hạn chế, tồn tại thời gian qua và nghiên cứu, xây dựng các giải pháp hữu hiệu, đặc biệt là cần đẩy nhanh tiến độ luật hóa kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng để tạo cơ sở pháp lý cho hành động thực tế.
Đinh Hữu Thuận
Viện nghiên cứu phát triển nhân lực Đông Nam Á
[1] Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
[2] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.28.
[3]https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-1980-Cong-hoa-Xa-hoi-Chu-Nghia-Viet-Nam-36948.aspx.
[4]https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-1992-cong-hoa-xa-hoi-chu-nghia-Viet-nam-38238.aspx.
[5]https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-nam-2013-215627.aspx.
[6] Luật Phòng, chống tham nhũng, số 36/2018/QH14, ngày 20 tháng 11 năm 2018.
[7] Xem: Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị.
[8] Xem: Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27-10-2023 của Bộ Chính trị.
[9] Xem: Quy định 132-QĐ/TW ngày 27-10-2023 của Bộ Chính trị.
[10] Nguyễn Phú Trọng (2023): Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.117-119.
[11]https://ubkttw.vn/danh-muc/tin-tuc-thoi-su/phien-hop-thu-24-ban-chi-dao-trung-uong-ve-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc.html.