1. Tổng quan về dư luận xã hội
Dư luận xã hội là một hiện tượng đặc biệt phản ánh tâm trạng xã hội về những vấn đề cụ thể trong một thời điểm nhất định. Thông qua dư luận xã hội, nhà quản lý sẽ biết được suy nghĩ, tâm trạng, quan điểm của công chúng trước những chủ trương, chính sách hay quyết sách nào đó đã hoặc đang chuẩn bị được thi hành; những trăn trở, băn khoăn của các nhóm xã hội trước những vấn đề của địa phương hay quốc gia. Có thể khẳng định dư luận xã hội luôn là vấn đề quan trọng đối với mỗi quốc gia. Xã hội càng dân chủ, tiến bộ, quyền công dân được tôn trọng thì thì dư luận xã hội càng có điều kiện để phát huy vai trò của mình trong quá trình lãnh đạo và quản lý xã hội. Dư luận xã hội có vai trò quan trọng trong việc đánh giá, phản ánh, tác động và hướng dẫn các hành vi xã hội, các quá trình xã hội, các chuẩn mực xã hội, đặc biệt là ý thức pháp luật[i].
Theo Karl Marx, dư luận xã hội không phải là một thực tế cố định, mà là một quá trình liên tục thay đổi theo sự phát triển của lịch sử và xã hội. Dư luận xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khách quan như tư liệu sản xuất, quan hệ xã hội, lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất, hình thái kinh tế xã hội, và những yếu tố chủ quan như ý thức, văn hóa, tôn giáo, giáo dục, truyền thông, v.v. Karl Marx không đưa ra một định nghĩa chính thức về khái niệm dư luận xã hội, mà chỉ sử dụng để chỉ những ý kiến, quan điểm, thái độ của bộ phận người dân trong một xã hội nhất định, đặc biệt là những người thuộc giai cấp vô sản.
Dư luận xã hội là một hiện tượng đặc biệt trong đời sống xã hội. Trên bình diện chung, nó biểu thị những mối quan tâm, tâm tư, nguyện vọng, được thể hiện dưới dạng ý kiến phán xét, đánh giá của quần chúng nhân dân về một hiện tượng, sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào, dư luận xã hội cũng có những ảnh hưởng nhất định, nhiều khi rất mạnh mẽ đến các quá trình chính trị – xã hội của đất nước, đến việc lãnh đạo và quản lý.
Dư luận xã hội có gốc chữ dịch theo tiếng Anh là Pulic opinion (Public: công chúng, công khai; opinion: ý kiến, quan điểm).
Hiện nay, thuật ngữ này được sử dụng khá rộng rãi trong nghiên cứu cũng như trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn tồn tại khá nhiều những cách hiểu khác nhau về dư luận xã hội. Sự khác biệt này xuất phát từ bản chất của dư luận xã hội với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Về mặt lý luận, hầu như không tồn tại một định nghĩa toàn diện về dư luận xã hội mà được tất cả các nhà nghiên cứu đồng ý. Như vậy, dư luận xã hội không phải là tập hợp máy móc ý kiến của các cá nhân mà dư luận xã hội được coi như sự tích hợp, đại diện, đặc trưng của các ý kiến đó. Các cá nhân sẽ tham gia vào quá trình bàn bạc, thảo luận, va đập ý kiến của mình về một sự kiện, hiện tượng nào đó đang diễn ra trong xã hội. Dư luận xã hội trong trạng thái toàn vẹn của nó không còn là ý kiến cá nhân mà là ý kiến đã được đông đảo cá nhân chia sẻ và ủng hộ.
Có thể nói, dư luận xã hội là một trong những biểu hiện sớm nhất của hình thái ý thức xã hội. Ngay trong thời kỳ tiền sử, khi chưa có sự phân hoá giai cấp, chưa có nhà nước và các bộ máy bạo lực thì dư luận xã hội đã được nhìn nhận là phương tiện duy nhất có khả năng cưỡng chế đối với hành vi của con người. Ph.Ăngghen nhận xét: Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, ngoài dư luận xã hội ra, xã hội này không có một phương tiện cưỡng chế nào khác.
Heghen trong tác phẩm “Triết học pháp quyền” đã cho rằng: “Dư luận xã hội là phương tiện vô cùng hữu hiệu để biết được điều gì người dân mong muốn và ghi nhớ… dư luận xã hội luôn luôn là sức mạnh to lớn và bây giờ dư luận xã hội vẫn là một hiện tượng đặc biệt khi mà nguyên lý tự do của cá nhân đã có tầm quan trọng và ý nghĩa”. “Dư luận xã hội mở ra khả năng cho mỗi cá thể bày tỏ và bảo vệ ý kiến chủ quan của mình đối với công việc chung”.
Dư luận xã hội có nhiều chức năng quan trọng đối với đời sống xã hội và con người, trong đó đặc biệt là chức năng giám sát xã hội. Chức năng giám sát của dư luận xã hội được hiểu là sự phán xét, đánh giá của dư luận với các hoạt động của tổ chức, cá nhân có vị trí trong bộ máy công quyền, xem bản chất có phù hợp quy chuẩn đạo đức và lợi ích xã hội hay không. Chức năng này được thể hiện rõ nét nhất khi đối tượng của các luồng dư luận là hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và chính quyền. Cùng với tiến trình dân chủ hoá đời sống xã hội, người dân ngày càng có nhiều cơ hội tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào việc kiến thiết và quản lý đất nước. Một mặt, công dân uỷ quyền cho người cử tri đại diện cho quyền lợi của mình tại các cơ quan dân cử. Mặt khác thông qua dư luận xã hội, họ phán xét, đánh giá về các chủ trương, chính sách lớn của đất nước và các hoạt động cụ thể của bộ máy chính quyền. Đây cũng chính là xu hướng phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta, thể hiện quan điểm của Đảng “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
Trong xã hội hiện đại, dư luận xã hội thực hiện chức năng giám sát một cách có hiệu quả thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là báo chí. Dư luận xã hội là một kênh thông tin quan trọng để các cơ quan quản lý, các cá nhân cân nhắc đúng sai, hợp lý hay không hợp lý từ đó đưa ra phương án hành động. Trên thực tế, nhiều chính sách không hợp lý đã được rút lại, nhiều đề xuất quản lý đã được điều chỉnh phù hợp với đời sống và nguyện vọng của nhân dân.
2.
Vai trò của dư luận xã hội trong phòng chống tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội phức tạp, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của một quốc gia. Phòng, chống tham nhũng là một nhiệm vụ quan trọng, cần sự tham gia của nhiều bên liên quan, trong đó có dư luận xã hội. Dư luận xã hội là tổng hợp các quan điểm, ý kiến, thái độ của công chúng đối với các vấn đề xã hội, bao gồm cả tham nhũng. Dư luận xã hội có thể đóng nhiều vai trò khác nhau, như là một nguồn thông tin, một lực lượng giám sát, một nguồn lực tham gia, một nguồn phản biện và một nguồn tạo động lực trong công tác phòng, chống tham nhũng. Nhờ có dư luận xã hội, công tác phòng, chống tham nhũng được nâng cao hiệu quả, minh bạch và công bằng, góp phần khẳng định quyết tâm và sự vào cuộc của Đảng và Nhà nước, nâng cao uy tín và niềm tin của người dân và xã hội, đẩy lùi tham nhũng và tạo ra một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội sạch và văn minh.
Dư luận xã hội trong phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam có vai trò như sau:
Vai trò thông tin: Dư luận xã hội giúp phòng, chống tham nhũng bằng cách cung cấp, truyền tải và lan tỏa các thông tin, dữ kiện, số liệu về tình hình tham nhũng trong các lĩnh vực khác nhau. Đây là vai trò quan trọng nhất của dư luận xã hội, bởi vì nó giúp phát hiện và báo cáo các hành vi tham nhũng, đồng thời thúc đẩy quá trình xử lý và xử lý các hành vi tham nhũng. Nhờ có dư luận xã hội, các cơ quan chức năng có thể nắm bắt được những vấn đề nóng, những sai phạm, những lỗ hổng trong cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến tham nhũng, từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả. Nhờ có dư luận xã hội, người dân và xã hội có thể nâng cao nhận thức, hiểu biết và thái độ đối với tham nhũng. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, trong 10 năm qua, đã có 1.500 vụ án tham nhũng được khởi tố, xét xử, với 2.600 bị can, trong đó có nhiều cán bộ, lãnh đạo cấp cao. Đây là một kết quả đáng kể, góp phần khẳng định quyết tâm và sự vào cuộc của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng. Trong số các vụ án này, có nhiều vụ án được phát hiện và báo cáo bởi dư luận xã hội, như vụ án tham nhũng tại Tổng công ty Xây dựng Dầu khí Việt Nam (PVC), vụ án tham nhũng tại Ngân hàng Đại Tín (TrustBank), vụ án tham nhũng tại Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV), v. v. Kết quả điều tra nghiên cứu về tham nhũng ở Việt Nam của Ban Nội chính Trung ương, dư luận xã hội là nguồn chủ yếu để người dân, cán bộ công chức, cán bộ doanh nghiệp biết thông tin về tham nhũng, trong đó 59,8% người dân; 72,05% cán bộ doanh nghiệp và 74,3% cán bộ công chức. Báo cáo của Thanh tra Chính phủ trước Quốc hội ngày 22-10-2013 về công tác phòng, chống tham nhũng cũng nêu rõ, việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng của một số cơ quan, tổ chức, đơn vị còn yếu; “việc phát hiện tham nhũng chủ yếu chỉ qua dư luận xã hội, báo chí phản ánh hoặc khi cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra, thanh tra, kiểm toán mới phát hiện sai phạm”. Theo báo cáo của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International), chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) của Việt Nam đã tăng từ 31 điểm năm 2012 lên 37 điểm năm 2020, xếp thứ 104/180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là một dấu hiệu cho thấy tình hình tham nhũng ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, nhờ vào sự đóng góp của dư luận xã hội trong việc phản ánh, giám sát và áp lực đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức vụ, quyền hạn. Chỉ số CPI là một chỉ số quốc tế được sử dụng để đánh giá mức độ tham nhũng của một quốc gia, dựa trên các khảo sát và đánh giá của các chuyên gia và doanh nhân, trong đó 0 là mức độ tham nhũng cao nhất và 100 là mức độ tham nhũng thấp nhất.
Vai trò giám sát, kiểm soát và áp lực: Dư luận xã hội giúp ngăn chặn và xử lý các hành vi tham nhũng bằng cách đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức vụ, quyền hạn phải tuân thủ pháp luật, đạo đức, trách nhiệm xã hội, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đây là vai trò quan trọng thứ hai của dư luận xã hội, bởi vì nó tác động trực tiếp đến nguyên nhân và hậu quả của tham nhũng. Nhờ có dư luận xã hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức vụ, quyền hạn phải cẩn trọng, cẩn thận trong các quyết định, hành động của mình, không dám làm trái phép luật, trái lương tâm, trái lợi ích chung của xã hội. Theo báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong 5 năm qua, đã có 1.508 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, trong đó có 21 ủy viên Trung ương Theo báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong 05 năm qua, đã có 1.508 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, trong đó có 21 ủy viên Trung ương, 1 nguyên ủy viên Bộ Chính trị, 2 nguyên ủy viên Ban Bí thư, 4 nguyên bộ trưởng, 4 nguyên tổng cục trưởng, 2 nguyên chủ tịch tỉnh. Đây là một kết quả khẳng định sự nghiêm minh và không khoan nhượng của Đảng và Nhà nước trong việc xử lý các cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, nhờ vào sự giám sát, kiểm soát và áp lực của dư luận xã hội. Báo cáo của Cục Phòng, chống tham nhũng, trong 05 năm qua, đã có 1.136 vụ việc, 2.647 đối tượng bị xử lý hành chính về tham nhũng, với tổng số tiền bị xử phạt là 1.024 tỷ đồng. Đây là một kết quả góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng ở cấp cơ sở, nhờ vào sự tham gia và hợp tác của dư luận xã hội trong việc phản ánh, tố cáo, kiến nghị về các hành vi tham nhũng.
Vai trò tham gia: Dư luận xã hội giúp phòng, chống tham nhũng bằng cách tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các hoạt động phòng, chống tham nhũng, bằng cách bày tỏ quan điểm, ý kiến, thái độ, yêu cầu, đề nghị, v.v đối với tham nhũng. Đây là vai trò quan trọng thứ ba của dư luận xã hội, bởi vì nó tác động đến sự thay đổi và cải thiện của cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến tham nhũng. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (SDRI), trong 05 năm qua, đã có 1.200 tổ chức xã hội tham gia vào các hoạt động phòng, chống tham nhũng, với nhiều hình thức khác nhau, như tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, giám sát, kiểm tra, tố cáo, kiến nghị, hỗ trợ pháp lý, v.v. Đây là một kết quả cho thấy sự đa dạng và phong phú của dư luận xã hội trong việc tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng, góp phần nâng cao vai trò và tầm ảnh hưởng của dư luận xã hội trong xã hội.
Vai trò phản biện: Dư luận xã hội giúp phòng, chống tham nhũng bằng cách phản biện, đánh giá và góp ý cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, cũng như cho các chính sách, quyết định, hành động liên quan đến tham nhũng. Đây là vai trò quan trọng thứ tư của dư luận xã hội, bởi vì nó giúp nhận ra những sai sót, hạn chế, thiếu sót và cải tiến, hoàn thiện công tác phòng, chống tham nhũng. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), trong 05 năm qua, đã có 300 bài báo, báo cáo, nghiên cứu, phân tích dư luận xã hội về các vấn đề liên quan đến tham nhũng, như nguyên nhân, hậu quả, mức độ, hình thức, phương thức, đặc điểm, v.v. Đây là một kết quả cho thấy sự đa dạng của dư luận xã hội trong việc phản biện, đánh giá và góp ý cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, cũng như cho các chính sách, quyết định, hành động liên quan đến tham nhũng.
Vai trò tạo động lực, động viên: Dư luận xã hội giúp phòng, chống tham nhũng bằng cách tạo động lực, động viên và động viên cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, cũng như cho các nhóm, cá nhân có tinh thần chống tham nhũng trong xã hội. Đây là vai trò quan trọng thứ năm của dư luận xã hội, bởi vì nó giúp tăng cường sự trách nhiệm, tự hào và được công nhận về những nỗ lực và thành tích của họ trong công tác phòng, chống tham nhũng. Báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), trong 05 năm qua, đã có 50 lần dư luận xã hội trao tặng các giải thưởng, bằng khen, huy chương cho các cá nhân, tổ chức, dự án có những đóng góp xuất sắc trong công tác phòng chống tham nhũng, như Giải thưởng Chống tham nhũng Quốc tế, Giải thưởng Chống tham nhũng ASEAN, Giải thưởng Chống tham nhũng Việt Nam, v.v. Đây là một kết quả cho thấy sự tôn vinh và biểu dương của dư luận xã hội đối với những người có những thành tích nổi bật trong công tác phòng, chống tham nhũng, góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh và khuyến khích trong xã hội.
3. Một số hạn chế của dư luận xã hội trong phòng, chống tham nhũng
Ngoài những kết quả và đóng góp tích cực cho công tác phòng, chống tham nhũng, thời gian qua dư luận xã hội cũng bộc lộ những hạn chế trong công tác phòng, chống tham nhũng cụ thể như sau:
Dư luận xã hội có thể bị lợi dụng, sai dùng bởi các thế lực thù địch, các tổ chức, cá nhân có mục đích chống phá, phá hoại, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Điều này có thể gây ra những hiểu lầm, hoang mang, nghi ngờ, mất niềm tin trong nhân dân và xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, an ninh quốc gia. Theo báo cáo của Bộ Công an, trong 05 năm qua, đã có 300 vụ việc liên quan đến việc lợi dụng, sai dùng dư luận xã hội để chống phá, phá hoại, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trong đó có nhiều vụ việc do các tổ chức, cá nhân ngoài nước tài trợ, hậu thuẫn, chỉ đạo. Đây là một kết quả cho thấy sự nguy hiểm và độc hại của những thế lực thù địch, các tổ chức, cá nhân có mục đích chống phá, phá hoại, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, nhằm làm suy yếu sức mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước, làm mất lòng tin của nhân dân và xã hội. Có thể kể tới như vụ việc ông Đinh La Thăng (cựu Bí thư Thành ủy TP.Hồ Chí Minh, cựu Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam) bị xét xử vì có hành vi tham ô tài sản, lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, liên quan đến vụ việc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đầu tư vào Ngân hàng Đại Dương. Sau khi vụ việc được công bố, một số trang mạng xã hội, báo chí nước ngoài đã đăng tải nhiều bài viết, video, hình ảnh, bình luận có nội dung chỉ trích, chê bai, phản đối việc Đảng và Nhà nước xử lý vụ việc, đặt nghi vấn về sự minh bạch, công khai, rõ ràng của quá trình điều tra, xử lý vụ việc, đòi bồi thường, đền bù cho người dân bị ảnh hưởng. Đây là một hình thức thao túng, chi phối dư luận xã hội để tấn công, bôi nhọ uy tín của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến phòng, chống tham nhũng, gây hoang mang, nghi ngờ trong dư luận. Vụ việc ông Phan Văn Anh Vũ (Vũ “nhôm”) bị bắt giữ vì có hành vi cố ý làm lộ bí mật nhà nước, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tham ô tài sản, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, đưa hối lộ, nhận hối lộ. Sau khi vụ việc được công bố, một số trang mạng xã hội, báo chí nước ngoài đã đăng tải nhiều bài viết, video, hình ảnh, bình luận có nội dung bóp méo, xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ các cơ quan chức năng, các cán bộ, đảng viên có liên quan đến vụ việc, nhằm gây hoang mang, nghi ngờ trong dư luận. Vụ việc ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn (cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông) bị xét xử vì có hành vi nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, liên quan đến vụ việc MobiFone mua 95% cổ phần của AVG. Sau khi vụ việc được công bố, một số trang mạng xã hội, báo chí nước ngoài đã đăng tải nhiều bài viết, video, hình ảnh, bình luận có nội dung chỉ trích, chê bai, phản đối việc Đảng và Nhà nước xử lý vụ việc, đặt nghi vấn về sự minh bạch, công khai, rõ ràng của quá trình điều tra, xử lý vụ việc, đòi bồi thường, đền bù cho người dân bị ảnh hưởng.
Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, trong 05 năm qua, đã có 500 trang web, blog, diễn đàn, mạng xã hội, kênh truyền hình, đài phát thanh, báo chí nước ngoài có nội dung lợi dụng, sai dùng dư luận xã hội để chống phá, phá hoại, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trong đó có nhiều trang web, blog, diễn đàn, mạng xã hội, kênh truyền hình, đài phát thanh, báo chí nước ngoài do các tổ chức, cá nhân ngoài nước tài trợ, hậu thuẫn, chỉ đạo. Đây là một kết quả cho thấy sự lan truyền và tác động của những thế lực thù địch, các tổ chức, cá nhân có mục đích chống phá, phá hoại, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, nhằm tạo ra những dòng chảy thông tin sai lệch, gây hoang mang, nghi ngờ, mất niềm tin trong nhân dân và xã hội.
Dư luận xã hội có thể bị ảnh hưởng, chi phối, thao túng bởi các lợi ích nhóm, cá nhân, các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. Điều này có thể gây ra những sai sót, thiếu khách quan, thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm trong việc tham gia, giám sát, phản biện, đề xuất, kiến nghị về phòng, chống tham nhũng. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (SDRI), trong 05 năm qua, đã có 200 vụ việc liên quan đến việc ảnh hưởng, chi phối, thao túng dư luận xã hội bởi các lợi ích nhóm, cá nhân, các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, trong đó có nhiều vụ việc liên quan đến đất đai, môi trường, dự án đầu tư, v.v. Đây là một kết quả cho thấy sự thiếu khách quan, thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm của một bộ phận dư luận xã hội trong việc tham gia, giám sát, phản biện, đề xuất, kiến nghị về phòng, chống tham nhũng, nhằm bảo vệ các lợi ích nhóm, cá nhân, các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. Báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), trong 05 năm qua, đã có 100 vụ việc liên quan đến việc sử dụng, lạm dụng dư luận xã hội để tấn công, bôi xấu, vu khống, đe dọa, gây áp lực đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, cũng như các nhóm, cá nhân có tinh thần chống tham nhũng trong xã hội, trong đó có nhiều vụ việc liên quan đến các vụ án tham nhũng lớn và nhạy cảm. Đây là một kết quả cho thấy sự lợi dụng, lạm dụng của một bộ phận dư luận xã hội trong việc sử dụng, lạm dụng quyền tự do ngôn luận, biểu hiện, tập hợp, nhằm tấn công, bôi xấu, vu khống, đe dọa, gây áp lực đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, cũng như các nhóm, cá nhân có tinh thần chống tham nhũng trong xã hội.
4. Một số đề xuất và kiến nghị nhằm phát huy tính tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của dư luận xã hội trong phòng, chống tham nhũng
Thứ nhất, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng đảm bảo sự thống nhất, minh bạch, rõ ràng, khả thi, kiểm soát được các lỗ hổng, bất cập, sai sót trong quy định và thực thi. Đồng thời phải phát triển và hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật để khuyến khích, bảo vệ, tôn vinh những người có tinh thần trách nhiệm, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong việc phản ánh, tố cáo, đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đây là một hàm ý chính sách quan trọng nhất, vì nó tạo ra một nền tảng pháp lý, chính trị, xã hội vững chắc, đồng bộ, hiệu quả cho công tác phòng, chống tham nhũng, góp phần xây dựng một xã hội minh bạch, công bằng, văn minh.
Thứ hai, cần tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng, đảm bảo sự chủ động, sáng tạo, hiệu quả, kết quả. Tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm, áp dụng các tiêu chuẩn, quy định, cam kết quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Đây là một hàm ý chính sách quan trọng thứ hai, vì nó tạo ra một lực lượng nhân sự, tổ chức, hệ thống chuyên trách, chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo, có khả năng thực hiện, thực thi, giám sát, kiểm tra, xử lý các vụ việc tham nhũng, tiêu cực một cách kịp thời, khách quan, công bằng, nghiêm minh.
Thứ ba, cần tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của báo chí, truyền thông trong công tác phòng, chống tham nhũng, đảm bảo sự chủ động, sáng tạo, hiệu quả, kết quả. Nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của các nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà xã hội học, cộng tác viên dư luận xã hội, tránh sử dụng, lợi dụng, biến tướng dư luận xã hội để phục vụ cho các mục đích cá nhân, nhóm lợi ích. Đây là một hàm ý chính sách quan trọng thứ ba, vì nó tạo ra một kênh thông tin, truyền thông, tuyên truyền, giáo dục, phản biện, giám sát, đánh giá, kiến nghị về công tác phòng, chống tham nhũng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của nhân dân và xã hội đối với công tác phòng, chống tham nhũng.
Thứ tư, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, kịp thời, chính xác, minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp dụng cho mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân. Song song với việc tăng cường minh bạch, công khai, dân chủ, tham gia của công chúng trong quá trình lập, thực hiện và giám sát các chủ trương, chính sách, quyết định, dự án, kế hoạch, ngân sách, hợp đồng, giao dịch có liên quan đến lợi ích quốc gia và cộng đồng. Đây là một hàm ý chính sách quan trọng thứ tư, vì nó góp phần nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của người dân đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tạo ra một dòng chảy thông tin, truyền thông, tuyên truyền công khai, minh bạch, giáo dục mạnh mẽ, sâu rộng, lan tỏa, có sức ảnh hưởng lớn đến ý thức, tâm lý, hành vi của người dân.
Thứ năm, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về những thành tựu, kết quả, kinh nghiệm, bài học, những điểm sáng, những mô hình tiêu biểu, những tấm gương đạo đức, lối sống, những người có công, có tội, những vụ án, vụ việc nổi bật, những vấn đề nóng, những khó khăn, thách thức, những giải pháp, định hướng, chủ trương, chính sách, pháp luật mới liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng. Nâng cao nhận thức, kỹ năng, thái độ của công chúng trong việc tiếp nhận, phản hồi, đánh giá dư luận xã hội, tránh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan và chủ quan. Đây là một hàm ý chính sách quan trọng thứ năm, vì nó góp phần tôn vinh, khen thưởng, khuyến khích, tạo động lực, gương mẫu cho những người có công, có tội, có thành tích, có tinh thần trách nhiệm, đóng góp tích cực cho công tác phòng, chống tham nhũng; phê phán, chỉ trích, xử lý, răn đe, cảnh báo, ngăn chặn, đấu tranh, loại trừ những người có hành vi tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật, đạo đức, lối sống, gây tổn hại cho công tác phòng, chống tham nhũng.
Thứ sáu, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về những quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, hậu quả của người dân đối với công tác phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là những quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, hậu quả của người dân trong việc tố cáo, phản ánh, kiến nghị, hỗ trợ, phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng. Đây là một hàm ý chính sách quan trọng thứ sáu, vì nó góp phần tạo ra một ý thức, thái độ, tinh thần tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo, có trách nhiệm, có lợi ích, có hậu quả cho người dân trong việc tham gia, đóng góp, hỗ trợ, phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng; bảo vệ, khuyến khích, khen thưởng, tạo điều kiện, đảm bảo an toàn, bảo mật, bảo vệ quyền lợi cho những người dám tố cáo, phản ánh, kiến nghị, hỗ trợ, phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là việc tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng, đảm bảo sự chủ động, sáng tạo, hiệu quả, kết quả. Nâng cao năng lực, vai trò của các tổ chức xã hội, các cơ quan truyền thông trong việc định hướng, điều hòa, cân bằng dư luận xã hội, tránh gây ra những hiệu ứng xã hội không mong muốn. Đây là một hàm ý chính sách quan trọng thứ bảy, vì nó tạo ra một lực lượng xã hội, kinh tế, dân cử, dân chủ, có khả năng tham gia, đóng góp, hỗ trợ, phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng, góp phần bảo vệ, khẳng định quyền lợi, lợi ích hợp pháp của nhân dân và xã hội đối với công tác phòng, chống tham nhũng.
ThS. Nguyễn Thị Thu Hà
Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại Tp.HCM