1. Khái niệm tham nhũng trong xây dựng pháp luật
Hiện nay, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, các Công ước quốc tế khác và pháp luật Việt Nam chưa có định nghĩa pháp lý cụ thể, riêng biệt về “tham nhũng trong xây dựng pháp luật”. Các nghiên cứu, bài viết và các trao đổi tại các diễn đàn trong và ngoài nước thường đề cập đến các dấu hiệu, biểu hiện của loại tham nhũng này và hầu hết không tách rời vấn đề “tham nhũng trong xây dựng pháp luật” với “tham nhũng chính sách”, “tham nhũng trong lĩnh vực chính trị”, “tham nhũng của chính khách – cổ cồn trắng”, mặt trái của “vận động hành lang”, “lũng đoạn nhà nước”…
Từ quan niệm: Xây dựng pháp luật là hoạt động phức hợp bao gồm phạm vi rộng lớn các hành vi kế tiếp, quan hệ chặt chẽ với nhau; do nhiều chủ thể có vị trí, chức năng, quyền hạn khác nhau tiến hành nhằm chuyển hóa ý chí của giai cấp cầm quyền thành những quy tắc pháp lý, thể hiện chúng dưới những hình thức pháp luật; đồng thời nhận thấy ở Việt Nam, xây dựng pháp luật tập trung chủ yếu là việc xây dựng các văn quy phạm pháp luật, trước hết là các văn bản được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, ngoài ra, còn có nhiều văn bản không nằm trong hệ thống này nhưng chứa đựng những quy phạm pháp luật; hành vi tham nhũng xảy ra trong quá trình ban hành các văn bản này và tác động đến các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình đề nghị, soạn thảo, trình hoặc thông qua các văn bản này…có học giả quan niệm tham nhũng trong xây dựng pháp luật là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong quá trình xây dựng pháp luật để mang lại lợi ích không chính đáng cho cơ quan, tổ chức, ngành hoặc một số người hoạt động hay kinh doanh trong một số ngành nghề, lĩnh vực hoặc công tác quản lý nhà nước. Với cách tiếp cận theo khái niệm của của Luật Phòng, chống tham nhũng, có ý kiến cho rằng tham nhũng cần được hiểu một cách chung nhất là việc lạm dụng quyền lực công vì lợi ích tư. Lợi ích tư không chỉ là lợi ích của cá nhân cụ thể mà có thể là lợi ích của cơ quan, tổ chức hoặc lợi ích của một nhóm người, một cá nhân. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, để xác định được một người có hành vi tham nhũng phải xác định được đồng thời ba yếu tố: thứ nhất, chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn; thứ hai, hành vi tham nhũng phải gắn liền với nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể; thứ ba, động cơ, mục đích của tham nhũng là vụ lợi. Như vậy, xét đến các yếu tố cấu thành hành vi tham nhũng thì vấn đề quyền hạn và mục đích vụ lợi luôn được coi là những yếu tố bắt buộc để xác định hành vi vi phạm pháp luật có là hành vi tham nhũng hay không. Hoạt động xây dựng pháp luật là một trong những hoạt động do chủ thể có chức vụ, quyền hạn tiến hành, trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước. Như vậy, khi còn tồn tại quyền lực công thì luôn có nguy cơ tham nhũng. Tùy mức độ nhiệm vụ quyền hạn khác nhau mà tham nhũng xảy ra với những hình thái biểu hiện cũng như hậu quả khác nhau. Tham nhũng có thể xảy ra trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đặc thù của các nhánh quyền lực, các vụ việc tham nhũng xảy ra trong lĩnh vực hành pháp là phổ biến hơn cả. Ở Việt Nam, hoạt động xây dựng pháp luật – bao gồm lập pháp và lập quy – không chỉ là hoạt động của cơ quan lập pháp mà còn là hoạt động của các cơ quan hành pháp và các chủ thể nhà nước khác. Về lý thuyết, hoạt động xây dựng pháp luật là việc thực thi quyền lực nhà nước nên cũng hiện hữu nguy cơ tham nhũng. Với cách tiếp cận trên, có người quan niệm tham nhũng trong xây dựng pháp luật là việc người có thẩm quyền đã lợi dụng thẩm quyền trong xây dựng pháp luật để ban hành hay đề nghị ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mà trong đó có chứa quy định vì lợi ích của cá nhân hoặc một nhóm người. Với quan niệm này, có học giả lưu ý rằng, trên thực tiễn, với tính chất của hoạt động xây dựng pháp luật, việc xác định có hay không có yếu tố vụ lợi là vấn đề không hề đơn giản. Bởi lẽ, quy trình xây dựng pháp luật luôn phải thực hiện với trình tự nhiều bước, có sự tham gia của nhiều chủ thể nhà nước và xã hội. Một văn bản quy phạm pháp luật ra đời luôn có phạm vi và đối tượng điều chỉnh rộng, đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các quyền bình đẳng, tự do kinh doanh của các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần ngày càng được bảo đảm thực chất hơn. Vì vậy, nếu trong các văn bản quy phạm pháp luật có yếu tố “lợi ích tư” thì cũng khó có thể chỉ là lợi ích của riêng một cá nhân mà có thể là “lợi ích nhóm”…
Trong bất kỳ thể chế chính trị nào cũng tồn tại các “nhóm lợi ích”, “nhóm thân hữu” khác nhau luôn tìm cách tác động vào chính sách để mang lại lợi ích cho nhóm mình. “Nhóm lợi ích” vận động hành lang nhằm bảo vệ “lợi ích nhóm” là biểu hiện của dân chủ. Ở các nước phương tây, luật về “nhóm lợi ích” và vận động hành lang vừa là sự bảo đảm dân chủ, vừa là hành vi kiểm soát của nhà nước đối với “nhóm lợi ích” và hoạt động vận động chính sách công của họ. Do chưa có sự thừa nhận về mặt pháp lý về sự tồn tại của “nhóm lợi ích” nên tại Việt Nam, “nhóm lợi ích” và “lợi ích nhóm” thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực. Không chỉ trên thế giới, thời gian gần đây ở Việt Nam, cụm từ “tham nhũng trong xây dựng pháp luật” được nhiều người sử dụng tương đương cụm từ “tham nhũng chính sách”. Các cụm từ này cũng gắn bó chặt chẽ, song hành với cụm từ “lợi ích nhóm” bởi nếu nhận diện thì “tham nhũng chính sách”, “tham nhũng trong xây dựng pháp luật” là biểu hiện thực tiễn của “lợi ích nhóm” và ngược lại. Do đó một số học giả cho rằng, bản chất của hiện tượng này có thể diễn đạt một cách đơn giản nhất là tình trạng những người có quyền thế, có tài chính, có “quan hệ thân hữu” sử dụng quyền, tiền và quan hệ của mình để “điều chỉnh chính sách” theo hướng có lợi cho họ, nhóm của họ trong tương lai và tất nhiên quá trình “điều chỉnh” này đồng thời tước đoạt lợi ích của những người yếu thế hơn; làm cho người giàu càng giàu hơn và người nghèo càng nghèo đi.
Tuy nhiên, tham nhũng chính sách có nội hàm rộng hơn tham nhũng trong xây dựng pháp luật, tham nhũng chính sách bao gồm các hành vi tham nhũng diễn ra trong toàn bộ chu trình chính sách công gồm các giai đoạn như lựa chọn chính sách; xây dựng và ban hành chính sách (xây dựng pháp luật); thực thi chính sách; đánh giá, hậu kiểm chính sách. Tuy nhiên, do quan tâm đề cao vấn đề chính sách trong văn bản luật, nhiều người cho rằng, tham nhũng trong xây dựng pháp luật là cách gọi khác của tham nhũng chính sách – là hiện tượng xảy ra trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật thông qua việc tác động của các chủ thể có liên quan vào nội dung chính sách trong dự thảo văn bản pháp luật, hướng tới lợi ích cục bộ, không chính đáng của một nhóm trong xã hội khi văn bản pháp luật được ban hành.
Căn cứ vào nội dung và các trải nghiệm quốc tế trong thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng; căn cứ các quy định pháp lý và thực tiễn Việt Nam; tổng hợp và kế thừa cách tiếp cận và quan niệm của nhiều học giả, tác giả cho rằng: (i) Xây dựng pháp luật theo nghĩa cụ thể bao gồm các hoạt động xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung pháp luật; đây hoạt động phức hợp; được tiến hành theo trình tự/chu trình pháp lý; có thể bao gồm các công đoạn cơ bản, có mối quan hệ kế thừa nhau. (ii) Xây dựng pháp luật theo nghĩa chung nhất là quá trình thực hiện hay tham gia “nhiệm vụ, công vụ” làm luật của các chủ thể nhà nước và xã hội có chức năng, chức vụ, nhiệm vụ, quyền và lợi ích khác nhau. (iii) Tham nhũng trong xây dựng pháp luật – về bản chất – là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ làm luật vì vụ lợi. Vì trên các phương diện lý thuyết và thực tiễn, mọi chủ thể có chức vụ, quyền hạn thuộc khu vực công và tư tham gia xây dựng pháp luật đều có thể có hành vi tham nhũng. (iii) Tham nhũng trong xây dựng pháp luật là cách gọi tên – định danh nhằm quy nạp “một hiện tượng tham nhũng hết sức đặc thù, đa dạng, phức tạp”. Vì nhìn tổng thể, hoạt động xây dựng pháp luật được tiến hành bởi rất nhiều chủ thể công – tư khác nhau và dường như không bị giới hạn về nội dung; khó xác định về phạm vi, quy mô, chủ thể tiến hành, chủ thể tham gia và đối tượng tác động; lao động và đặc biệt là sản phẩm lao động xây dựng pháp luật vừa cụ thể, vừa trừu tượng, khó nhận định, đánh giá, kiểm nghiệm. Từ luận giải trên, tác giả đưa ra khái niệm: “Tham nhũng trong xây dựng pháp luật là hành vi của người, nhóm người, tổ chức có chức vụ, nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động xây dựng pháp luật đã lợi dụng chức vụ, nhiệm vụ, quyền hạn đó để vụ lợi cho cá nhân, nhóm, tổ chức của mình”[1
2. Bản chất và dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng trong xây dựng pháp luật
Trước hết phải khẳng định tham nhũng trong xây dựng pháp luật mang đầy đủ dấu hiệu bản chất của tham nhũng nói chung với ít nhất 04 thuộc tính cơ bản: (i) Là hành vi của thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội có chức vụ, quyền hạn; (ii) thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó; (iii) việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó với mục đích vụ lợi cho thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội; (iv) khách thể mà hành vi tham nhũng xâm hại có thể bao gồm đồng thời là các giá trị liêm chính, sự phát triển bền vững và lành mạnh của khu vực công và tư, các quyền về tài sản, quyền bình đẳng về cơ hội cho mọi công dân và các chủ thể pháp luật.
Ngoài ra, tham nhũng trong xây dựng pháp luật có những dấu hiệu khác biệt hết sức quan trọng trong so sánh với các dạng tham nhũng khác thường gặp. Việc nắm bắt, thống nhất nhận thức về những dấu hiệu này có ý nghĩa cốt tử đối với công tác đấu tranh phòng, chống loại tham nhũng đặc biệt này.
Từ khái niệm trên, tác giả phân tích một số dấu hiệu bản chất, riêng có của tham nhũng trong xây dựng pháp luật nhằm phân biệt với các dạng tham nhũng khác như sau:
Một là, về phạm vi: Tham nhũng trong xây dựng pháp luật là hành vi tham nhũng diễn ra trong toàn bộ quá trình của hoạt động xây dựng pháp luật, như: Khảo sát, đánh giá thực tiễn; phát hiện và nêu ý tưởng chính sách; đề xuất chính sách; duyệt/quyết định chương trình và nội dung chính sách; soạn thảo chính sách thành dự luật; quyết định, thông qua chính sách/pháp luật; tổng kết, sơ kết đánh giá chính sách, pháp luật và quá trình thực thi chính sách, pháp luật chuẩn bị cho đề nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới chính sách, pháp luật.
Hai là, về chủ thể: Chủ thể của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật hết sức phong phú: Có thể là cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; tổ chức xã hội, pháp nhân, nhóm xã hội và cá nhân. Những chủ thể này có điểm chung là có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm hoặc lợi ích liên quan trong quá trình xây dựng pháp luật và liên quan đến nội dung chính sách của văn bản quy phạm pháp luật là sản phẩm của hoạt động xây dựng pháp luật trong tương lai. Trong số các chủ thể này, chủ thể đặc trưng, tiêu biểu và có sức mạnh nhất trong phá hoại, lũng đoạn chính sách phải kể đến các nhóm lợi ích thuộc khu vực công và tư – có thể bao gồm bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội, các NGO, doanh nghiệp, báo chí….Nhìn chung, khác với thể nhân, các nhóm lợi ích chính thức – hợp pháp hoặc các nhóm xã hội hình thành tự phát đều hoạt động có tính tổ chức, với quy mô và nguồn lực nhất định cùng khả năng bàn định và hành động tập thể. Trong đó, bao gồm nhóm lợi ích ở nước ngoài, liên quốc gia, có yếu tố nước ngoài hoặc được sự hậu thuẫn từ nước ngoài.
Ba là, về đối tượng và khách thể xâm hại: Đối tượng xâm hại của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật là nội dung chính sách trong văn bản pháp luật; khách thể xâm hại của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật là tính đúng đắn của nội dung chính sách trong văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, các chính sách sai trái, cực đoan đã được ban hành hướng tới phục vụ lợi ích nhóm tiêu cực là các chính sách đã bị xâm hại, thao túng bởi hành vi tham nhũng. Nội dung chính sách trong dự thảo văn bản pháp luật là “mồi nhử”, là đối tượng dành, giật của các nhóm lợi ích.
Bốn là, về đối tượng tác động: Đối tượng tác động của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật chính là các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích trong hoạt động xây dựng pháp luật. Trong nhiều trường hợp, đối tượng bị tác động của hành vi tham nhũng có thể hoán đổi để đồng thời là chủ thể của hành vi tham nhũng – nghĩa là một thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội nào đó vì lợi ích của mình, có thể vừa thực hiện hành vi đưa hối lộ và nhận hối lộ liên quan đến cùng một quá trình xây dựng văn bản pháp luật cụ thể.
Năm là, về động cơ và mục tiêu. Mục tiêu “vụ lợi” của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật thường là mục tiêu sâu xa, chiến lược, chưa hiện thực nhưng sẽ đạt được trên thực tế vì lợi ích không chính đáng của cá nhân, nhóm, tổ chức đã được “cài, cắm” vào nội dung văn bản quy phạm pháp luật sẽ được ban hành trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số chủ thể, chẳng hạn chủ thể của hành vi nhận hối lộ có thể đã đạt được mục tiêu của mình ngay trong quá trình đề xuất hoặc soạn thảo văn bản pháp luật.
Sáu là, về biểu hiện khách quan. Hình thái biểu hiện – mặt khách quan của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật hết sức phong phú, đa dạng, nhìn chung là khó nhận biết bản chất thật sự của hành vi. Theo đó, ngoài những biểu hiện truyền thống của hành vi tham nhũng như trực tiếp đưa, nhận, môi giới, hứa hẹn, chào mời hối lộ mà chúng ta có thể nhận biết qua lời khai nhân chứng, hình ảnh, clip, email, hóa đơn ngân hàng… (cũng không dễ dàng có được những chứng cứ vật chất này, nhất là chứng cứ bảo đảm giá trị pháp lý) – các hình thức mua chuộc, lung lạc, chi phối quan chức các cấp, các cán bộ cấp kỹ thuật, những đại biểu dân cử, những nhà hoạt động xã hội, các cơ quan báo chí…tại nhiều không gian, nhiều diễn đàn, nhiều hoàn cảnh công khai và bí mật khó có thể nhận biết và kiểm soát động cơ thực sự của hành vi theo lối tư duy thông thường, như: Các cuộc tiệc chiêu đãi núp bóng “working diner”; các lời mời đi nước ngoài du lịch dưới danh nghĩa tham dự các hội thảo, diễn đàn quốc tế; các món quà tặng, các khoản “lại quả” – “chia lộc”, các “cát xê” giá trị cao nhân danh sự tri ân, trả thù lao, mời góp cổ phần hoặc phối hợp đầu tư; các cơ hội mua nhà, đất giá ưu đãi núp bóng việc tham gia đấu thầu, đấu giá; các cơ hội học tập, chữa bệnh cho con cái, người thân ở nước ngoài núp dưới danh nghĩa học bổng, thăm thân, nghiên cứu thị trường…
Như vậy, khác với các hành vi tham nhũng thường thấy, tham nhũng trong xây dựng pháp luật diễn ra vô cùng tinh vi, rất khó phát hiện bản chất của mối quan hệ thân hữu giữa biểu hiện bên ngoài và động cơ thực sự bên trong. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp, nó được che đậy bằng các “lập luận khoa học”, chẳng hạn coi đó là các hành vi nhân danh lợi ích chung; phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước; đáp ứng nhu cầu xã hội; theo thông lệ quốc tế, thông lệ kinh doanh, thông lệ đầu tư; đã có tiền lệ – phổ biến; phù hợp với tập quán – văn hóa truyền thống; phù hợp với nền kinh tế thị trường và điều kiện Việt Nam…nhưng thực chất là sự bao biện nhằm hướng đến lợi ích cục bộ của một nhóm thân hữu, một tổ chức, một ngành nghề cả trong và ngoài khu vực công.
Bảy là, về hậu quả, tác hại: Do khách thể xâm hại của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật là tính đúng đắn của nội dung chính sách trong văn bản quy phạm pháp luật nên khác với hậu quả của các hành vi tham nhũng thường thấy, tham nhũng trong xây dựng pháp luật có hậu quả thường vô cùng nặng nề, lâu dài, phạm vi rộng lớn – có thể trên phạm vi toàn quốc và trên mọi phương diện của đời sống xã hội và không thể lượng hóa. Việc cơ quan hoặc người có thẩm quyền ban hành một văn bản luật hàm chứa trong đó có những nội dung chính sách mà yêu cầu về điều kiện bảo đảm cho nó thực thi có khi làm thất thoát, lãng phí hay thâm thụt ngân sách, tăng nợ công nghiêm trọng; hoặc khiến toàn dân phải “thắt lưng buộc bụng” chỉ vì chính phủ tập chung chi tiêu cho một công trình “vô bổ” theo nguyện vọng của nhóm lợi ích thiểu số; có thể làm rối loạn an ninh – trật tự chỉ vì bãi bỏ hoặc ban hành mới một quy định cực đoan, một thủ tục hành chính hay tăng chi phí tuân thủ pháp luật theo mong muốn của một bộ, ngành; có thể làm đảo lộn trật tự ổn định bấy lâu của cả một lĩnh vực; thậm chí có thể làm phân hóa xã hội sâu sắc, gây hoang mang chính trị, xúc phạm tự trọng của một dân tộc, tổn thương đến quan hệ ngoại giao hoặc châm ngòi cho chính biến…Ở mức độ dễ nhận thấy nhất, về kinh tế, tham nhũng trong xây dựng pháp luật làm cho môi trường kinh doanh trở nên thiếu bình đẳng; cản trở sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp – vì theo đó, doanh nghiệp không cần nâng cao năng lực, chất lượng sản phẩm mà chỉ chỉ cần có quan hệ thân hữu là giành được những hợp đồng béo bở; khoa học công nghệ, năng suất lao động và hiệu quả đầu tư xã hội chậm được cải thiện; đặc quyền, đặc lợi nhóm thân hữu với cơ quan quản lý khiến nhiều doanh nghiệp phải gồng mình với các gánh nặng chi phí đủ loại và nguy cơ bỏ lỡ cơ hội hoặc chậm cải thiện sức cạnh tranh. Về mặt chính trị – xã hội, tham nhũng trong xây dựng pháp luật làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền và vai trò quản lý của nhà nước; làm sai lệch bản chất chế độ, tha hóa cán bộ; đe dọa sự phát triển ổn định của hệ thống thể chế và sự lành mạnh nền kinh tế – tài chính quốc gia; làm gia tăng sự phân hóa và bất bình đẳng xã hội; tước đoạt cơ hội của các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp “thân cô thế cô”, nhóm yếu thế thường là nông dân, công nhân, cư dân ở vùng sâu, vùng xa; làm mất lòng tin của nhân dân vào các giá trị cốt lõi[2]; ngăn cản các mục tiêu phát triển bền vững của các quốc gia…Đặc biệt, lũng đoạn nhà nước – cấp độ cao nhất của tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật với những đặc điểm, tính chất riêng có của nó như đề cập ở phần trên sẽ gây ra tác hại vô cùng to lớn cho nhiều chủ thể khác nhau. So với các hình thức tham nhũng khác, tác hại của lũng đoạn nhà nước nghiêm trọng hơn nhiều, vì nó có phạm vi rộng, làm biến đổi, méo mó các quy tắc pháp lý và đạo đức, từ đó tác động tiêu cực lên toàn bộ xã hội[3]. Tổ chức Minh bạch quốc tế nhận định, trong các loại hình tham nhũng thì “lũng đoạn nhà nước” là một trong những hình thức nguy hiểm nhất và gây ra tác hại nặng nề nhất[4]
* Tác giả cũng lưu ý rằng tham nhũng trong hoạt động xây dựng pháp luật cần được nhận thức bao gồm cả hành vi tham nhũng trong sử dụng nguồn tài chính hợp pháp đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật. Bởi mỗi văn bản pháp luật khi xây dựng đều cần sử dụng một lượng kinh phí hợp pháp nhất định, có thể từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác và việc chi tiêu phải thực hiện theo các quy định chặt chẽ của nhà nước. Việc sử dụng không đúng quy định về tài chính và mang lại lợi ích cho cá nhân hoặc tập thể thực chất là tham nhũng. Trong đó, các hành vi điển hình dễ nhận thấy là khai khống số lượng công việc (chi phí họp, hội thảo, hội nghị, khảo sát, mua sắm trang thiết bị văn phòng…) hoặc lợi dụng danh nghĩa phục vụ xây dựng văn bản để huy động, chiếm đoạt các nguồn tài chính khác từ xã hội, các tổ chức quốc tế hoặc tổ chức các hoạt động tham quan, khảo sát trong và ngoài nước…Những hành vi tham nhũng này khá cụ thể, diễn ra trực tiếp, dễ nhận biết hơn. Ngoài ra, hoạt động xây dựng pháp luật có thể gặp khó khăn do sự sách nhiễu của cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong các giai đoạn làm luật, chẳng hạn như các giai đoạn góp ý, thẩm định, thẩm tra, thông qua, ban hành…nên đôi khi cơ quan chủ trì soạn thảo cũng có những động tác “bôi trơn”, “động viên” những cơ quan và người có thẩm quyền, trách nhiệm để thúc đẩy tiến độ xây dựng pháp luật… Số tiền hối lộ ở đây thường không đáng kể, thường được núp dưới hình thức “bồi dưỡng”, “cảm ơn”. Tuy nhiên, do lượng kinh phí dành cho hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam thường không nhiều nên tham nhũng ở đây không có tác hại lớn và do đó, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích, luận giải tham nhũng được gây ra bởi các chủ thể chịu tác động của chính sách – là nội dung của văn bản luật – còn được gọi là “tham nhũng chính sách”.
3. Nguyên nhân, điều kiện của tham nhũng trong xây dựng pháp luật
– Nguyên nhân tham nhũng trong xây dựng pháp luật
Tham nhũng nói chung, tham nhũng trong xây dựng pháp luật nói riêng có căn nguyên, có xuất phát điểm là “lòng tham, cái ác” nằm trong bản chất tự nhiên của con người và thuộc sở hữu của phần “con”. Nguyên nhân này mang tính tất yếu, tự nhiên. Nói cách khác, tham nhũng là một biểu hiện của lòng “tham”, của cái “ác”, của bản năng tự nhiên nằm sâu trong mỗi con người. Nó ví như các nguyên tố tự nhiên nằm bên trong cấu trúc của mỗi hạt giống mà trong điều kiện khô nóng chúng tạm “ngủ yên”, nhưng khi gặp nước, nhiệt độ và ánh sáng thích hợp, chúng sẽ khiến hạt nảy mầm. Với con người, khi tham gia xã hội, lòng “tham”, cái “ác”, thường được che giấu, chờ điều kiện thích hợp để bộc lộ hoặc cũng có trường hợp lòng “tham”, cái “ác” đó bị cái “thiện” lấn át hoặc bị chôn vùi bởi nỗi lo sợ bị trừng phạt hoặc bởi quan niệm về đạo đức liêm chính.
Do bản năng tự nhiên, con người, nhóm người luôn có khả năng thực tế để trở thành chủ thể của hành vi tham nhũng – không chỉ trong hoạt động xây dựng pháp luật – nếu không được giáo dục, tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức liêm chính để có thể hạn chế, kiểm soát được lòng tham, cái ác trong nhu cầu bản thân.
Nói rộng ra, không chỉ thể nhân, mà các tổ chức, pháp nhân, nhóm xã hội đều “có sẵn – tiềm ẩn” một khát vọng tồn tại và “giành, giật, chiếm hữu” các tài sản, nguồn lực và cơ hội từ bên ngoài do luôn tồn tại trong pháp nhân, tổ chức, nhóm xã hội ấy những cá thể với bản năng tự nhiên “tham – sân – si”. Do đó, pháp nhân, tổ chức, nhóm xã hội cũng luôn có khả năng thực tế để trở thành chủ thể của hành vi tham nhũng – không chỉ trong hoạt động xây dựng pháp luật – nếu thiếu vắng sự kiểm soát hiệu năng của hiến pháp, pháp luật, đạo đức liêm chính và của các thiết chế nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, khi tiếp cận cụ thể về hiện tượng tham nhũng trong xây dựng pháp luật được gây ra bởi “tư bản thân hữu”, nhiều chuyên gia thống nhất nhận định rằng việc thiếu một thị trường tự do theo đúng nghĩa là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng tham nhũng này. Theo đó, thị trường tự do thực sự nghĩa là không có đặc quyền cho bất cứ ai – bao gồm và trước hết là các chủ thể nhà nước hay nhân danh nhà nước; không có chỗ cho các chính trị gia và quan chức chính quyền đưa ra đặc quyền và ưu đãi, bởi họ không có thứ gì để bán, để cho hay để ban phát. Mặt khác, cũng không có động cơ hoặc lợi ích nào khiến các doanh nghiệp, nhóm lợi ích phải chi những số tiền khổng lồ để “lại quả”, hàm ơn, “nuôi sống” quan chức hay đóng góp cho các chiến dịch tranh cử, nỗ lực tranh ghế của quan chức hoặc chi phí tốn kém cho vận động hành lang. Cũng không thể xuất hiện kiểu “quan hệ cộng sinh”, “quan hệ đối tác” lãng phí và bại hoại giữa chính phủ và các doanh nghiệp bởi với một thị trường tự do thực sự, quyền lực chính trị bị hạn chế khỏi bất kỳ nhiệm vụ nào ngoài việc đảm bảo quyền sống, quyền tự do và tài sản có được một cách hòa bình của mỗi cá nhân[5]. Tiến sĩ Richard M. Ebeling, giáo sư về Đạo đức và Lãnh đạo Doanh nghiệp Tự do tại Trường kỹ thuật Carolina[6] có một số gợi ý đáng lưu ý về dấu hiệu bản chất của một thị trường tự do thực sự như sau: (i) Tất cả các tư liệu sản xuất (đất đai, tài nguyên, vốn) đều thuộc sở hữu tư nhân; (ii) việc sử dụng các tư liệu sản xuất dưới sự kiểm soát của các chủ sở hữu tư nhân có thể là cá nhân hoặc tổ chức doanh nghiệp; (iii) nhu cầu của người tiêu dùng quyết định phương thức sản xuất sẽ được sử dụng như thế nào; (iv) lực lượng cạnh tranh của cung và cầu quyết định giá cả của hàng hóa tiêu dùng và các yếu tố sản xuất khác nhau bao gồm tiền lương của người lao động; (v) sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp cá thể và doanh nghiệp tập đoàn được xác định bởi lãi và lỗ mà các doanh nghiệp này kiếm được trong cuộc cạnh tranh tự do với các đối thủ của họ trên thị trường; (vi) thị trường tự do không chỉ giới hạn trong các giao dịch trong nước, và bao gồm tự do thương mại quốc tế; (vii) chính phủ bị giới hạn trong các hoạt động của mình nhằm thực thi và bảo vệ cuộc sống, quyền tự do và tài sản có được một cách trung thực chống lại bạo lực và gian lận. Nhất trí với cách tiếp cận này, một số học giả cho rằng các cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị mà thế giới phải gánh chịu thời gian qua không phải là khủng hoảng hay thất bại của thị trường tự do mà đó là cuộc khủng hoảng và thất bại của nhà nước phúc lợi theo chủ nghĩa can thiệp và hệ tư tưởng chống lại thị trường tự do tư bản chủ nghĩa[7].
– Điều kiện phát sinh tham nhũng trong xây dựng pháp luật
Tham nhũng trong xây dựng pháp luật sẽ có điều kiện và cơ hội phát sinh, nảy nở trong các điều kiện chính trị – pháp lý và xã hội sau:
+ Thiếu bảo đảm thực tế về dân chủ trong quốc gia, địa phương, nhất là trong các sinh hoạt chính trị – pháp lý – bao gồm hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật; trong tiếp cận thông tin; trong việc thừa nhận sự tồn tại hợp pháp của các tổ chức xã hội dân sự với ý kiến đa chiều; trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và giám sát quá trình này từ phía dân chúng.
+ Thiếu sự công khai, minh bạch và bảo đảm về trách nhiệm giải trình của các cơ quan đề xuất chính sách, soạn thảo và thông qua văn bản luật. Thay vào đó là sự o bế thông tin; việc không chấp nhận, không tiếp thu, không giải trình hoặc không giải trình hợp lý các góp ý, phản biện công khai, chính thức, có tổ chức của các nhóm xã hội. Đây là cơ hội, điều kiện lý tưởng để các “nhóm thân hữu”, tiêu cực “đi đêm”, chi phối thực tế quá trình chính sách.
+ Sự phân hóa, mất đoàn kết, tham nhũng, tha hóa trong nội bộ đảng cầm quyền là cơ hội quý báu để các “nhóm lợi ích”, “nhóm thân hữu” tận dụng, khai thác, “đục nước béo cò” xúc tiến vận động, can thiệp, phân hóa để chính sách công được ban hành có lợi cho nhóm mình. Dù trên nguyên tắc, ý chí của đảng chính trị cầm quyền trong một quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất, thậm chí quyết định tới nội dung chính sách trong văn bản quy phạm pháp luật.
+ Thiếu bảo đảm pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các “nhóm lợi ích” và vận động hành lang dẫn đến các “nhóm lợi ích” hình thành và vận động chính sách công một cách tự phát, cực đoan, vô tổ chức, thiếu công khai, minh bạch và công bằng; thiếu sự kiểm soát từ phía nhà nước.
+ Đạo đức liêm chính và năng lực của các chủ thể nhà nước trong lập chính sách công và chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có sự bất cập. Theo đó, chẳng hạn, các cơ quan chủ trì hoặc cán bộ, công chức, đại biểu dân cử có trách nhiệm đề nghị, đề xuất, soạn thảo, tiếp thu – giải trình, góp ý – phản biện, quyết định văn bản quy phạm pháp luật… không đủ liêm chính khi lợi dụng quyền hạn của mình chủ động vòi vĩnh hối lộ để “ban ơn” chính sách cho các doanh nghiệp, hiệp hội, “nhóm lợi ích” công – tư hoặc cá nhân; hoặc thụ động nhận hối lộ để ghi nhận, thể hiện trong dự thảo văn bản pháp luật các nội dung chính sách cục bộ của một “nhóm lợi ích”. Hoặc ở một phương diện khác, cơ quan chủ trì hoặc cán bộ, công chức, đại biểu dân cử thiếu năng lực phát hiện nhu cầu từ thực tiễn, thiếu khả năng phân tích, dự báo chính sách, thiếu kỹ năng thể chế hóa chính sách thành quy phạm và khả năng tiếp thu, giải trình, thương thuyết đối với các chủ thể có liên quan…dẫn tới sự bị động chấp nhận, ghi nhận, thể hiện trong văn bản dự thảo hoặc thông qua những văn bản đã bị các “nhóm lợi ích” chi phối hoàn toàn về nội dung chính sách trong đó.
+ Trình độ dân trí thấp là môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển của tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Bởi khi người dân không có đủ năng lực góp ý, phản biện, đeo bám đối với dự kiến chính sách hay dự thảo luật; không có khả năng phản hồi về tác động, tính thực tiễn, khả thi của dự luật thì các “nhóm lợi ích” có thể “làm mưa làm gió” mà không gặp các trở ngại chính trị do phản ứng của dư luận và truyền thông. Ngược lại, việc tham gia rộng rãi, hiệu quả của các tầng lớp nhân dân vào quá trình xây dựng luật sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan đề xuất ý tưởng chính sách và soạn thảo chính sách, sẽ làm các “nhóm lợi ích” phải “dè chừng” khi xúc tiến vận động chính sách theo hướng có lợi cho mình.
+ Quy trình xây dựng pháp luật thiếu khoa học, không phù hợp, nhiều kẽ hở sẽ tạo cơ hội phát sinh tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Theo đó, nếu quy trình xây dựng pháp luật không thu hút sự tham gia thực chất, hài hòa của các đối tượng chịu tác động; không bảo đảm sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể có liên quan và khả năng kiểm soát hoạt động xây dựng pháp luật từ phía nhà nước và nhân dân; không bảo đảm bảo đảm sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật thì chắc chắn đây sẽ là cơ hội và điều kiện lý tưởng để các “nhóm lợi ích”, các chủ thể có liên quan lợi dụng trục lợi trong quá trình xây dựng pháp luật.
+ Bất cập về điều kiện tài chính, kỹ thuật cho công tác xây dựng pháp luật. Với một lượng tài chính đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật không được đảm bảo phù hợp từ ngân sách nhà nước sẽ có hai khả năng xảy ra: Việc nghiên cứu, tổng kết, khảo sát thực tiễn; việc trưng cầu, tiếp thu, phản hồi, giải trình ý kiến góp ý đối với dự luật; việc thực tế mô hình, kinh nghiệmở trong nước hay nước ngoài; việc soạn thảo và lập hồ sơ dự án luật…sẽ không thể thực hiện được hoặc thực hiện qua loa, chiếu lệ; cơ quan chủ trì soạn thảo và các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia pháp lý không thể yên tâm thực hiện tốt một công việc phức tạp, nhạy cảm này và luôn tiềm ẩn khả năng chịu sự tác động tiêu cực của các “nhóm lợi ích” và các chủ thể có liên quan qua.
+ Thiếu cơ chế hữu hiệu nhằm kiểm soát quyền lực trong hoạt động xây dựng pháp luật. Thực tế cho thấy tình trạng tham nhũng chính sách xảy ra chủ yếu ở những ngành, lĩnh vực, địa phương mà cơ chế kiểm soát quyền lực còn lỏng lẻo – bao gồm “tiền kiểm – hậu kiểm” văn bản/dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và kiểm soát nội bộ hay kiểm soát từ bên ngoài. Trên thực tế, việc tổ chức giám sát, phản biện chính sách của các lực lượng chức năng nhiều khi còn hời hợt, bị xem nhẹ hoặc triển khai hình thức; việc thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm trong hoạt động xây dựng pháp luật nhằm thắt chặt quản lý nhà nước trong lĩnh vực này bị “buông bỏ” hoặc không được quan tâm đúng mức; hay việc “thả nổi” tình trạng cán bộ, công chức vào thời điểm “hoàng hôn nhiệm kỳ” vì lợi ích cá nhân đã cố ý ban hành, phê duyệt những chính sách bất cập, gây thiệt hại cho xã hội…. đã tạo ra môi trường và điều kiện “lý tưởng” cho sự phát sinh và gia tăng của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật.
Về nguyên nhân, điều kiện chủ yếu dẫn đến sự gia tăng tham nhũng nói chung, với cách tiếp cận thực tế và cụ thể hơn trong bối cảnh Việt Nam, Chiến lược Quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã xác định: “Do hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ; việc kiện toàn các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị chưa theo kịp sự phát triển của đời sống kinh tế – xã hội; một bộ phận cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống còn thấp; việc tổ chức thực hiện các chủ trương, giải pháp về phòng, chống tham nhũng được đề ra trong những năm qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, hiệu quả chưa cao, đặc biệt là thiếu một chương trình, kế hoạch phòng, chống tham nhũng tổng thể, dài hạn. Trong những năm tới, cùng với quá trình tiếp tục chuyển đổi cơ chế quản lý, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đô thị hóa, sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, phát triển thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động …sẽ nảy sinh những điều kiện mới cho tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp. Mặt khác, việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cũng tạo cơ hội phát sinh những vụ việc tham nhũng với phạm vi rộng hơn, khó phát hiện và xử lý hơn do có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài”.
4. Nhận dạng tham nhũng trong xây dựng pháp luật
Tham nhũng có thể xảy ra trong các giai đoạn khác nhau của hoạt động xây dựng pháp luật như giai đoạn lựa chọn vấn đề chính sách, soạn thảo văn bản pháp luật và thông qua dự thảo văn bản pháp luật.
– Giai đoạn lựa chọn vấn đề chính sách: Một quốc gia, một địa phương hàng ngày, hàng giờ có hàng ngàn vấn đề đang đặt ra cần được giải quyết bằng chính sách. Vậy vấn đề nào cần ưu tiên giải quyết ngay? Tham nhũng trong xây dựng pháp luật bắt đầu bằng hành vi vận động của các chủ thể nhà nước và xã hội để vấn đề của mình, lợi ích của mình được ưu tiên “luật hóa”, nghĩa là làm sao để vấn đề đó phải giải quyết ở tầm chính sách và chính sách đó phải được lựa chọn đưa vào chương trình xây dựng pháp luật.
Điều 31 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định: Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải dựa trên kết quả tổng kết thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến chính sách của dự án luật, pháp lệnh; yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội; bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; yêu cầu của cam kết quốc tế….Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trong việc lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh thực hiện các hoạt động nhất định, lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh; tổng hợp, nghiên cứu, giải trình, tiếp thu các ý kiến góp ý…Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiến hành đánh giá tác động của từng chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nêu rõ: Vấn đề cần giải quyết; mục tiêu của chính sách; giải pháp để thực hiện chính sách; tác động tích cực, tiêu cực của chính sách; chi phí, lợi ích của các giải pháp; so sánh chi phí, lợi ích của các giải pháp; lựa chọn giải pháp của cơ quan, tổ chức và lý do của việc lựa chọn; đánh, giá tác động thủ tục hành chính; tác động về giới (nếu có). Việc xây dựng các văn bản khác dưới luật và pháp lệnh cũng tương tự như vậy. Có thể thấy giai đoạn đề xuất chính sách là rất quan trọng và mục đích chủ yếu của giai đoạn này là thuyết phục để Quốc hội hoặc cơ quan có thẩm quyền khác chấp nhận đưa vấn đề chính sách đó vào chương trình xây dựng văn bản pháp luật.
Như vậy, không chỉ ở Việt Nam, để xây dựng chính sách, khâu đầu tiên, nhà hoạch định chính sách phải nắm bắt thông tin, xem vấn đề gì nhân dân bức xúc nhất, quan tâm nhất, giải quyết được vấn đề đó sẽ tháo gỡ các vấn đề khác. Tuy nhiên trên thực tế, việc hoạch định chính sách không phải lúc nào cũng bảo đảm khách quan. Những nhóm lợi ích có thế mạnh thường có cách đưa thông tin và có các “kênh” tác động để làm cho cơ quan chức năng quan tâm hơn đến vấn đề của họ. Để tiếp cận nhanh đến cơ quan chức năng, những nhóm này có thể vận động hành lang, thậm chí “bôi trơn”… để được quan tâm hơn.
– Giai đoạn soạn thảo chính sách thành pháp luật. Tham nhũng có thể xảy ra với những hình thức rất tinh vi. Trong giai đoạn này, dù nội dung chính sách đã được duyệt hay định hình từ trước đó, nhóm lợi ích vẫn có thể trực tiếp (nếu là cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chủ trì soạn thảo) hoặc gián tiếp (các chủ thể khác có liên quan hối lộ người, cơ quan có trách nhiệm soạn thảo) đưa những nội dung hay phương án có lợi cho ngành mình, nhóm mình vào văn bản dự thảo; hoặc “gài” câu, chữ có lợi cho cơ quan, tổ chức, nhóm mình vào văn bản dự thảo; cũng có thể nại ra các thủ tục – điều kiện, các “giấy phép con” vô lý tại dự thảo văn bản để sau này có thể lợi dụng “làm khó” cho các chủ thể chịu tác động, tạo thêm cơ hội để trục lợi. Thủ đoạn tham nhũng trong giai đoạn này có thể là các “nhóm lợi ích” viện lý do cần phải bảo đảm sự chặt chẽ, khả thi, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước; hay nhân danh việc bảo đảm “an ninh quốc gia”, “lợi ích nhân dân”, “sự ổn định” hay “sự đổi mới” hoạt động của ngành – lĩnh vực, “tuân thủ điều ước quốc tế”…để biện minh cho những đề nghị bất chính và che đậy động cơ thực sự của nhóm mình. Sự lũng đoạn, chi phối chính sách sẽ gây ra hậu quả là chính sách một đằng, nội dung pháp luật một nẻo, xung đột chính sách là hiện tượng nhức nhối đến nay vẫn chưa giải quyết được[8].
– Giai đoạn thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: Đây là giai đoạn mang tính chất quyết định về chính sách trong dự thảo văn bản luật nên các hành vi tham nhũng diễn ra trong giai đoạn này hướng vào việc “mua phiếu”, “mua quyết định” của những chủ thể có thẩm quyền quyết định về chính sách hay biểu quyết thông qua dự thảo luật. Với các văn bản luật do Quốc hội ban hành, do Quốc hội là cơ quan có chức năng đại diện và đại biểu Quốc hội là đại diện cho các “nhóm lợi ích” khác nhau nên họ luôn chủ động công khai “lan tỏa” nhằm phát huy ảnh hưởng của mình để các đại biểu khác ủng hộ phương án có lợi cho nhóm của họ với sự trợ giúp về tài chính của nhóm mà họ làm đại diện. Trong nhiều trường hợp cụ thể, đại biểu Quốc hội không buộc phải đại diện cho một nhóm cụ thể nào đó, ví dụ, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, nhóm thân hữu, nhóm thân tộc, bộ – ngành…thì họ cũng luôn có khả năng bị các nhóm này vận động, lôi kéo, mua chuộc nhằm thể hiện các nội dung tranh luận tại những diễn đàn chính thức như tại nghị trường, trên các kênh truyền thông của nhà nước hay bỏ phiếu biểu quyết có lợi cho “nhóm lợi ích” đó. Với các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ hay các cơ quan hành chính, tư pháp ban hành, sự tác động của “nhóm lợi ích” đến nội dung chính sách của văn bản này thường tiến hành trực tiếp, đơn lẻ, ít công khai hơn qua việc mua chuộc, gây sức ép hoặc thậm chí là khống chế người có thẩm quyền trực tiếp quyết định ban hành hoặc bộ phận, người có vai trò trực tiếp tham mưu soạn thảo văn bản chính sách này. Như vậy, trong giai đoạn quyết về chính sách, tham nhũng có thể xảy ra khi những đại biểu dân cử hay những người đứng đầu cơ quan hành chính, tư pháp không giữ được phẩm chất đạo đức liêm chính; không ứng xử đúng đắn trong trường hợp xung đột lợi ích và đã hy sinh lợi ích chung để phục vụ “nhóm lợi ích” khi quyết định hoặc tác động để thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có lợi cho nhóm. Thời gian gần đây không ít đại biểu Quốc hội Việt Nam vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị bãi miễn, không được xác nhận tư cách đại biểu, thậm chí còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự[9] ít nhiều đều liên quan đến “lợi ích nhóm”, lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc có hành vi tham nhũng, tiêu cực trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật.
TS. Nguyễn Quốc Văn
Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] Nguyễn Quốc Văn, Phòng chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2021
[2] http://danviet.vn/tin-tuc/tham-nhung-chinh-sach-lam-dao-lon-trat-tu-xa-hoi-638526.html
[3] Nieves Zuniga (2019), https://uk.linkedin.com/in/nieves-zuniga-2aa1b522
[4] Maira Martini (2014), https://www.u4.no/publications/combating-illicit-financial-flows-the-role-of-the-international-community
[5] Richard M. Ebeling, Crony Capitalism the Cause of Society’s Problems, The Future of Freedom Foundation, 28/9/2015
[6] Tiến sĩ Richard M. Ebeling là Giáo sư Xuất sắc về Đạo đức và Lãnh đạo Doanh nghiệp Tự do tại trường kỹ thuật Carolina. Trước đây ông là giáo sư Kinh tế tại Đại học Northwood, chủ tịch Quỹ Giáo dục Kinh tế (2003–2008), được gọi là Giáo sư Kinh tế Ludwig von Mises tại Đại học Hillsdale (1988–2003) ở Hillsdale, Michigan, và từng là phó chủ tịch của các vấn đề học thuật cho Tổ chức Tương lai của Tự do (1989–2003)…
[7] http://thitruongtudo.vn/chi-tiet/chu-nghia-tu-ban-than-huu-nguyen-nhan-cua-cac-van-de-xa-hoi.html
[8] http://danviet.vn/tin-tuc/tham-nhung-chinh-sach-hau-qua-lon-trach-nhiem-nhe-639878.html
[9] Vụ đại biểu Lê Minh Hoàng, Mạc Kim Tôn, nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XI; Châu Thị Thu Nga, Đặng Hoàng Yến nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIII; Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Thị Nguyệt Hường, Phạm Phú Quốc nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIV…