Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy nguy cơ của căn bệnh quyền lực có thể phá hoại sự nghiệp cách mạng của dân tộc, ý thức được rằng, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn nhiều. Tham nhũng đã được xem là “giặc nội xâm” ngay từ thời điểm đó. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước vẫn khẳng định quyết tâm chính trị cao độ trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, đồng thời còn gắn chống tham nhũng với chống tiêu cực, lãng phí và các biểu hiện suy thoái khác trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị. Tổng kết kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII đã chỉ rõ: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố vững mạnh”. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đề ra trong nhiệm kỳ Đại hội XIII là “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.”. Chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ví dụ, 1 trong 10 chủ trương của Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng lãng phí năm 2006 là hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng: “chủ động tham gia các chương trình, sáng kiến, diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Thực hiện các cam kết quốc tế về phòng, chống tham nhũng, chú trọng tới các cam kết về xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch.”. Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/5/2012, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là văn bản chỉ đạo mang tính định hướng đối với vấn đề phòng, chống tham nhũng trong nước. Quan điểm của Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ) cũng đề ra “Đặt quá trình phòng, chống tham nhũng trong điều kiện hội nhập, chủ động hợp tác hiệu quả với các quốc gia, các tổ chức quốc tế; chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài trong công tác phòng, chống tham nhũng”. Nghị quyết số 82/NQ-CP ngày 06/12/2012 về chương trình hành động thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí giai đoạn 2012-2016” có đưa ra các nhóm nhiệm vụ chủ yếu, trong đó có Hợp tác quốc tế, thu hồi tài sản, hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Công ước). Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 29/11/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 có đề cập đến nhóm giải pháp số 8 về nội luật hóa các quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng phù hợp với điều kiện và pháp luật Việt Nam; mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng.
Văn kiện đầu tiên đề cập tới vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam là Nghị quyết 04/NQ-TW ngày 21/8/2006 của Ban chấp hành trung ương Đảng (Nghị quyết Trung ương 3 – khoá X). Nghị quyết đã nêu rõ “Chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng; áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng; nghiên cứu sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng khoan hồng hơn đối với những người đưa hoặc người nhận hối lộ nhưng đã tự giác khai báo và nộp lại tài sản trước khi bị phát hiện; chú trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng”.
Tuy nhiên, do tính chất của những vụ án tham nhũng thường phức tạp, khó khăn trong xác định tài sản tham nhũng. Điều này dẫn đến tình trạng kết quả thu hồi tài sản trong giai đoạn này khá thấp. Năm 2009, Việt Nam đã chính thức phê chuẩn, tổ chức thực thi UNCAC, điều này càng thúc đẩy Việt Nam cần mạnh mẽ thay đổi chính sách để đạt được những chuyển biến mới, mạnh mẽ, thực chất và hiệu quả hơn trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng nói chung và công tác hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản nói riêng. Cụ thể, Ngày 07/12/2015 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng”. Chỉ thị ghi nhận 8 nhiệm vụ, giải pháp đối với vấn đề xử lý vụ án tham nhũng, trong đó, vấn đề thu hồi tài sản được nhấn mạnh: “Trong xử lý tham nhũng phải xác minh rõ, chính xác tài sản của người có hành vi tham nhũng; áp dụng kịp thời các biện pháp thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng mà có trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Xử lý nghiêm minh những cán bộ không tích cực thu hồi hoặc cản trở hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng”. Chỉ thị 50-CT/TW đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong công tác phòng, chống tham nhũng và cải thiện tỷ lệ tài sản thu hồi từ các vụ án tham nhũng. Chỉ thị đồng thời đã chỉ ra nguyên nhân về những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý cán bộ, chính sách pháp luật chưa hoàn thiện, dẫn tới khả năng đương đầu với các vụ án tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Số lượng vụ án tham nhũng phát hiện còn ít, thu hồi tài sản tham nhũng đạt kết quả thấp… Một trong số những nguyên nhân được chỉ ra là công tác hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng nói chung và hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản nói riêng còn hạn chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, Chỉ thị đã đề ra 8 nhiệm vụ, giải pháp, trong đó nhiệm vụ thứ 7 nhấn mạnh vấn đề tăng cường hợp tác có hiệu quả với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong việc xử lý tội tham nhũng và các vấn đề liên quan thu hồi tài sản “Chủ động đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với các nước; thực thi công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp điều kiện, quy định của pháp luật Việt Nam”.
Như vậy, các chính sách của Việt Nam về phòng, chống tham nhũng đã bắt đầu chú trọng và đề cao vai trò của hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng. Tuy nhiên, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trực tiếp đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát trong các vụ án về tham nhũng thì chưa có một văn bản nào đích danh. Tuy nhiên, với thực trạng tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng chỉ đạt mức trung bình và hơn 26 %[1] (trong giai đoạn từ 2013-2020), trong khi đó, công tác thu hồi tài sản được đánh giá là một trong những yêu cầu tất yếu và là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, ngày 02/6/2021, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Theo đó, Chỉ thị đã chỉ ra những hiệu quả đạt được trong thời gian qua về công tác thu hồi tải sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, tỷ lệ thu hồi tài sản cũng được nâng lên và góp phần quan trọng vào kết quả chung của công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, nhận thức và trách nhiệm trong công tác thu hồi tài sản ở các cấp là chưa cao, nên để nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, tích cực góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng thực hiện tốt 07 nhiệm vụ, giải pháp được đưa ra trong Chỉ thị. Một trong số những giải pháp, nhiệm vụ được chú trọng là “Tăng cường hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng; chủ động phối hợp với các tổ chức quốc tế và các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài để xác minh, truy tìm và xử lý tài sản do phạm tội mà có đang ở nước ngoài. Đẩy mạnh tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp hình sự giữa Việt Nam với các nước, tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong phòng, chống tham nhũng có yếu tố nước ngoài”.
Ngày 11/10/2023, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 168/NQ-CP về Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030. Một trong 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm được xác định trong văn bản quan trọng này là “tích cực tham gia, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng”. Cụ thể hơn, Chiến lược cũng nêu cụ thể định hướng “tăng cường nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, nhất là trong phối hợp, chia sẻ thông tin, thực hiện các biện pháp ngăn chặn nhằm thu hồi tài sản bị tẩu tán hoặc truy bắt tội phạm tham nhũng bỏ trốn ra nước ngoài…”.
Với nhiều chủ trường, đường lối, chính sách được đưa ra trong những năm vừa qua, Việt Nam đã tích cực thể chế hoá các quy định pháp luật trong nước để gia tăng tính tương thích giữa pháp luật Việt Nam, điều kiện kính tế – xã hội với các quy định của pháp luật quốc tế. Điều kiện kinh tế – xã hội và mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam là yếu tố quyết định đến việc thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế cụ thể. Ví dụ, khi phê chuẩn UNCAC, theo Quyết định số 950/2009/QĐ-CTN ngày 30/6/2009, Việt Nam bảo lưu khoản 2 Điều 66 về cơ chế giải quyết tranh chấp trong giải thích hoặc áp dụng UNCAC và Tuyên bố không bị ràng buộc bởi các quy định về hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20, UNCAC) và quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân (Điều 26, UNCAC); đồng thời, Việt nam cũng tuyên bố không áp dụng trực tiếp các quy định của UNCAC và không coi UNCAC là cơ sở pháp lý trực tiếp về dẫn độ. Việc đưa ra các tuyên bố bảo lưu hoặc không bị ràng buộc bởi một số quy định của UNCAC là xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự phù hợp với các nguyên tắc căn bản của Hiến pháp, pháp luật quốc gia, cũng như xuất phát từ những đặc thù về thể chế chính trị, kinh tế – xã hội trong nước.
Như đã đề cập, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam tập trung vào ba trụ cột chính, hai trong số đó là: (i) Đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, bản sắc dân tộc; (ii) Đảm bảo sự thống nhất, ổn định của hệ thống chính trị. Có thể hiểu rằng tiến trình hội nhập nói chung trên mọi lĩnh vực cần phải được thực hiện với nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến những vấn đề cốt yếu mang tính quốc gia – dân tộc như: chủ quyền, chính trị, an ninh, văn hóa và những giá trị truyền thống khác…
Lịch sử đã ghi nhận Việt Nam luôn chủ trương xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm. Nhà nước Việt Nam được tổ chức trên cơ sở bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Theo đó, tất cả các lĩnh vực đều phải được thể chế hóa và điều chỉnh bởi các quy định pháp luật.
Cho đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Những văn bản này đã có tác dụng tích cực trong thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, hệ thống chính sách, pháp luật Việt Nam vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đảm bảo được tính chiến lược, toàn diện, đồng bộ, kịp thời, chưa tiếp cận và đáp ứng với yêu cầu của đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tính ổn định và dự báo chưa cao. Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân như: năng lực hoạch định chính sách và xây dựng thể chế về phòng, chống tham nhũng của các cơ quan có thẩm quyền chưa đáp ứng được yêu cầu; Lực lượng cán bộ của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng, trình độ và tính chất chuyên sâu; Công tác xây dựng pháp luật còn dàn trải, thiếu điều phối, trong khi đặc thù của pháp luật phòng, chống tham nhũng là rất rộng, liên quan tới nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ.
Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng đi kèm với nhiều nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam phải thực hiện, trong đó quan trọng nhất là cải cách thể chế pháp luật quốc gia. Nhiệm vụ này đặt ra những thách thức không nhỏ. Chỉ riêng việc chính thức trở thành thành viên của Công ước đã kéo theo hàng loạt các hoạt động: xây dựng chiến lược, chính sách, chương trình hành động chống tham nhũng, nội luật hóa các quy định của Công ước, nghiên cứu bổ sung, thể chế hóa các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, hình sự hóa các hành vi tham nhũng theo yêu cầu của Công ước; xây dựng, đàm phán và ký ết các hiệp định song phương, đa phương về dẫn độ, tương trợ pháp lý, hợp tác thực thi pháp luật, kiểm soát và thu hồi tài sản…
Khả năng tương thích, phù hợp giữa pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật quốc tế là yếu tố quyết định phần lớn hiệu quả của hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng, đặc biệt đối với các hoạt động hợp tác ở tầm vĩ mô và quan trọng như việc tham gia Công ước. Theo Báo cáo tổng kết Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng của Chính phủ, Việt Nam đã ban hành, tuân thủ và thực hiện đầy đủ 217/240 yêu cầu của Công ước; đã ban hành, tuân thủ và thực hiện nhưng chưa đầy đủ 18/240 yêu cầu và chỉ còn 5/240 yêu cầu của Công ước chưa được ban hành và chưa thực hiện. Để thực thi Công ước tốt hơn cũng như tham gia một cách tích cực và chủ động hơn vào các chương trình hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, tăng cường tổng thể và toàn diện năng lực xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng ngày càng phù hợp với các quy định, quy chuẩn quốc tế về phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng cần được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đặc biệt quan tâm thực hiện.
Như vậy, có thể thấy Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách rõ ràng, nhất quán trong hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác, chủ động phối hợp với các tổ chức quốc tế và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để thực hiện việc thu hồi tài sản tham nhũng.
NCS. Nguyễn Phương Vy
Nghiên cứu viên, Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] Thu Hằng – Việt Anh – Đỗ Thoa – Kim Thanh – Khúc Yến (2022), Thu hồi tài sản tham nhũng: “Nhốt quyền lực trong lồng cơ chế” (bài 1), Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/bai-1-nhan-dien-che-dinh-thu-hoi-tai-san-tham-nhung-615880.html, truy cập ngày 28/12/2023.