1. Khuôn khổ pháp luật về vai trò phòng, chống tham nhũng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua giám sát, phản biện xã hội
Vai trò phòng, chống tham nhũng nói chung và hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Cụ thể, Điều 74 về tTrách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận như sau: : a) Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; phản biện xã hội, kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng; kiến nghị việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng; b) Động viên Nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, phản ánh, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng; c) Cung cấp thông tin cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng; d) Giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, xác minh vụ việc tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, kiến nghị việc bảo vệ, khen thưởng người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, kiến nghị; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày “.
Trong Nghị định số 59/2019/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng còn nói rõ về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phòng, chống tham nhũng (Chương 2), gắn với các nhiệm vụ chính của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cụ thể: “Điều 5. Phối hợp trong hoạt động giám sát việc thực biện pháp luật về phòng, chống tham nhũng: 1. Khi thực hiện nhiệm vụ giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở địa phương, cơ sở, cơ quan nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét, tiếp thu kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp, Ban thanh tra nhân dân và ý kiến của nhân dân phản ánh thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện để Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng”.
Ngoài ra, Điều 23 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng quy định về hoạt động tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Mặt trận: a) Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí; xác minh vụ việc tham nhũng, lãng phí; xử lý người có hành vi tham nhũng, lãng phí; c) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khen thưởng đối với người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời yêu cầu, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật”. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản để triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo vị trí, vai trò của mình, như Chương trình hành động số 19/CTr-MTTW ngày 19/01/2017 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí giai đoạn 2018 – 2020 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 24/NQ-MTTW-UB ngày 22/01/2018, của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
Như vậy, có thể nói, hệ thống các văn bản quy định về vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với phòng, chống tham những đã được thể hiện rất chi tiết và cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam tử Hiến pháp cho tới Luật, Nghị định,…. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng. Về cơ bản, các quy định về vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã bám sát kịp thời, cụ thể hoá chi tiết các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 để thống nhất về mặt thể chế, hoạt động.
2. Thực trạng thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với công tác đấu tranh, phòng chống tham nhũng
Việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp từ khi Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 124-QĐ/TW có chuyển biến tích cực và bước phát triển mới, đạt kết quả quan trọng. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ 2019 – 2024 chỉ rõ: “Nhiệm kỳ Đại hội VIII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã khẳng định bước phát triển mới trong việc… thực hiện giám sát và phản biện xã hội”. Tại Đại hội XIII Đảng khẳng định: “Hoạt động giám sát, phản biện xã hội…. của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội ở các cấp và nhân dân theo các quyết định của Bộ Chính trị được đẩy mạnh và có chuyển biến tích cực” [1]. Cụ thể là:
* Về thực hiện chức năng giám sát: Mặt trận Tổ quốc các cấp đã coi trọng và triển khai giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã chủ trì hoặc phối hợp với các tổ chức thành viên và các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước triển khai 12 chương trình giám sát cấp Trung ương như: Chương trình số 01-CTPH/MTTQ-TTCP-BTP-HLG-LĐLS ngày 11/11/2014 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam về giám sát và nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở đã tổ chức 10 đoàn giám sát liên ngành giám sát trách nhiệm người đứng đầu các cấp trong tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, đông người, kéo dài liên quan đến tranh chấp đất đai, xây dựng chợ, bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư…; Chương trình phối hợp số 07/CTPΗ-MTTW-BTC-CCCI-LMHTXVN-DNNVV-DNTV ngày 07/4/2015 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài chính, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam về giám sát việc thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực thuế và hải quan đã tổ chức 07 đoàn giám sát tại 10 tỉnh, thành phố để tổng hợp kiến nghị Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan, nhằm tháo gỡ về cơ chế, chính sách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian nộp thuế, hải quan cho doanh nghiệp và người dân; Chương trình phối hợp số 06/CTPH-MTTW-KHCN-LHHKHKTVN ngày 11/3/2015 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam về giám sát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI) về phát triển khoa học, công nghệ và Luật Khoa học và Công nghệ nhằm thúc đẩy triển khai thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW và Nghị quyết số 46/NQ-CP về khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế tại địa phương; bám sát nhiệm vụ, mục tiêu về phát triển khoa học và công nghệ của Trung ương; công tác nghiên cứu, ứng dụng bước đầu đã gắn với chức năng, nhiệm vụ của các doanh nghiệp, từ đó hiện đại hóa công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa; chương trình khoa học và công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp được đẩy mạnh, góp phần nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; cơ sở vật chất, trang thiết bị khoa học và công nghệ ngày càng được quan tâm đầu tư. Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tiến hành 02 cuộc giám sát thông qua hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, gồm: Giám sát các văn bản liên quan đến việc ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ; giám sát Nghị định số 84/2015/NĐ-CP ngày 30/9/2015 của Chính phủ về giám sát và đánh giá đầu tư liên quan đến Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.
Trên cơ sở các văn bản đã triển khai giám sát ở Trung ương, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát, lựa chọn các nội dung giám sát phù hợp với thực tế tại địa phương. Đồng thời, đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức các nội dung giám sát: Giám sát cách thức lập và công bố chỉ số hài lòng của người dân, doanh nghiệp; giám sát việc thực hiện quy định của pháp luật về cải cách hành chính; Giám sát việc chấp hành pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở, góp phần giảm vụ việc bức xúc, đơn thư vượt cấp, đông người ra Trung ương khiếu kiện; giám sát việc “Công khai, minh bạch và trách nhiệm người đứng đầu cấp huyện, cấp xã trong trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí tại các dự án kinh tế – xã hội trên địa bàn địa phương.
Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường xuyên cử đại diện tham gia nhiều đoàn giám sát, kiểm tra, thanh tra của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội, Thanh tra Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, ngành… trên các lĩnh vực đời sống xã hội, các hoạt động liên quan tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân như: Việc thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc ít người; việc quản lý và sử dụng đất của các nông, lâm trường quốc doanh; việc thi hành án dân sự, hình sự; công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết, trả lời các kiến nghị của cử tri và nhân dân; công tác quản lý nhà nước về bảo đảm an toàn thực phẩm; giám sát, khảo sát việc thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ trong đồng bào dân tộc thiểu số; khảo sát về việc dạy tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên; giám sát, khảo sát việc tạo điều kiện cho các tôn giáo tham gia khám, chữa bệnh; hoạt động an sinh xã hội của các tôn giáo…. Tính đến năm 2019, sau 06 năm thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW Ủy ban Mặt trận các cấp đã chủ trì giám sát 492.784 cuộc. Trong đó, cấp tỉnh 4.093 cuộc, bình quân 13 cuộc/năm; cấp huyện 22.679 cuộc, bình quân 06 cuộc/năm; cấp xã 466.012 cuộc, bình quân 08 cuộc/năm. Trong đó, đa số các cuộc giám sát về thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp và việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống. chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu, cán bộ chủ chốt” [38].
* Về thực hiện chức năng phản biện xã hội: Mặt trận Tổ quốc các cấp đã tập trung hơn vào nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị, đề nghị về sự cần thiết, tinh cấp thiết của văn bản dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kết quả khảo sát thực tế năm 2018 của đề tài khoa học cấp bộ của Trung tâm nghiên cứu khoa học Ủy ban trung ương Việt Nam về đánh giá chất lượng phản biện xã hội: cấp Trung ương thực hiện tốt là 67,6%; cấp tỉnh là 55,6% và 32,2%; cấp huyện 32%; cấp xã 28,8%. Nhiều cuộc phản biện xã hội về sự cần thiết, tính cấp thiết của các văn bản dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước như phản biện Dự án Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; Dự án Luật về Hội; Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng,…. Nổi bật là phản biện về sự cần thiết, tính cấp thiết của Dự án Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Nhiều phản biện có giá trị của Mặt trận về một số dự thảo chủ trương của cấp ủy, chính quyền địa phương, về hỗ trợ khắc phục thiên tai, hộ nghèo, cứu trợ cá nhân và gia đình người chịu hậu quả lớn của đại dịch COVID – 19 ở một số tỉnh, phía Nam. Các phản biện về chủ trương của một số tỉnh, thành phố phía Bắc về phòng, chống đại dịch… Văn kiện Đại hội IX Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ rõ: “Trong nhiệm kỳ, ủy ban Mặt trận các cấp đã tổ chức 86.872 cuộc phản biện xã hội, trong đó có nhiều chú trương, chính sách, chương trình, đề án quan trọng liên quan đến phát triển kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân”[2].
Phương thức phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc các cấp đã có những đổi mới đem lại hiệu quả: các phương thức phản biện như: tổ chức hội nghị được Mặt trận ở hầu hết các cấp sử dụng; hội nghị đối thoại trực tiếp giữa ủy ban Mặt trận với lãnh đạo cơ quan, đơn vị có văn bản được phân biện được nhiều nơi thực hiện hiệu quả; Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với ủy ban Thường vụ Quốc hội xây dựng và trình Quốc hội thông qua Dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi). Việc tiếp nhận ý kiến phản biện của các tổ chức thành viên, các nhà khoa học, các chuyên gia về nội dung phản biện xã hội được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp coi trọng. Số lượng các ý kiến phản biện ngày càng tăng và có chất lượng. Nổi bật là việc tiếp nhận ý kiến phản ánh về những ứng viên bầu vào đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nhờ đó, hội nghị hiệp thương về vấn đề này ở nhiều nơi đạt hiệu quả cao. Việc tiếp nhận ý kiến phản biện của nhân dân trước và sau các kỳ họp Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp ngày càng nền nếp, hiệu quả hơn. Trong nhiệm kỳ khóa VIII Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổng hợp 38.140 ý kiến, kiến nghị của cử tri để báo cáo tại phiên khai mạc các kỳ họp của Quốc hội”[3].
Tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, mặc dù có vai trò quan trọng trong việc giám sát thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng nhưng cho đến nay, sau hơn 04 năm thi hành Luật, Mặt trận Tổ quốc vẫn chưa xây dựng được quy chế phối hợp với các tổ chức thành viên của mình trong phòng, chống tham nhũng. Điều này đã làm hạn chế hiệu quả, hiệu lực của hoạt động giám sát của Mặt trận.
Thứ hai, điều kiện hoạt động của Mặt trận Tổ quốc về môi trường thể chế và các nguồn lực hỗ trợ chưa tương xứng với vai trò của Mặt trận được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các quy định mới chỉ xác định trách nhiệm của Mặt trận mà chưa tạo những quyền tương xứng để đảm bảo cho Mặt trận thực hiện có hiệu quả vai trò này.
Thứ ba, hoạt động giám sát còn mang tính hình thức, mới chỉ dừng ở việc đưa ra các quy định mà còn yếu trong thực tế. Đến nay sự tham gia của xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc trong phòng, chống tham nhũng, đặc biệt trong công tác giám sát việc thực thi luật Luật Phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 47 và giám sát các lĩnh vực hoạt động khác của chính quyền, trong nhiều trường hợp mới chỉ dừng trên văn bản và mang tính hình thức. Trong các Đoàn giám sát mà Mặt trận Tổ quốc được mời tham gia, Mặt trận Tổ quốc chỉ đóng vai trò như một thành viên với tư cách đại diện cho các tổ chức quần chúng ở địa phương (để có đủ thành phần) mà vai trò của Mặt trận còn bị hạn chế, tiếng nói của Mặt trận chưa được thực sự lắng nghe. Trong nhiều trường hợp Mặt trận Tổ quốc chỉ được xin ý kiến một cách hình thức. Có một thực tế là, Mặt trận Tổ quốc, trong nhiều trường hợp thường thực thi vai trò với tư cách là “người hỗ trợ” chính quyền, mà chưa phải là người đại diện quyền lợi của người dân. Khi thực hiện giám sát cá nhân người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, cán bộ, đảng viên về thực hiện quy định nêu gương còn gặp phải một số hạn chế và khó khăn, do nhiều nguyên nhân, như “quy định còn có điểm không thực tế, thiếu tính khả thi… là do căn bệnh nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý”, dễ người, dễ ta, bệnh hình thức, hành chính, thành tích trong tổ chức đảng và ngoài xã hội vẫn còn nặng… do thiếu cơ chế để nhân dân tham gia ý kiến”.
Thứ tư, sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng còn có những hạn chế. Dù có vai trò quan trọng trong giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng nhưng cho đến nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa ban hành được quy chế phối hợp giữa các tổ chức thành viên trong phòng, chống tham nhũng. Năm 2014 (09 năm tính từ khi ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005), Mặt trận Tổ quốc đã ban hành quy chế phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên (Quy chế số 07/QC-MTTW-ĐCT ngày 14/4/2014). Tuy nhiên, quy chế này cũng chưa đề cập nhiều đến sự phối hợp cụ thể của các tổ chức thành viên trong phòng, chống tham nhũng. Các quy chế phối hợp giữa Mặt trận với các cơ quan nhà nước chuyên trách về phòng, chống tham nhũng chưa được ban hành đầy đủ. Vì vậy, công tác phối hợp và sự phân chia trách nhiệm giữa Mặt trận và các tổ chức thành viên, cơ quan nhà nước chuyên trách chưa rõ ràng và chưa đạt hiệu quả.
Thứ năm, Mặt trận Tổ quốc chưa có quyền chủ động trong việc thực thi vai trò giám sát của mình, vì trên thực tế Mặt trận chưa có quyền lập các đoàn giám sát độc lập. Theo quy định tại Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc thực hiện quyền giám sát thông qua việc động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát; tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước; và thông qua hoạt động của mình, tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật. Việc không có quyền chủ động thành lập các đoàn giám sát độc lập khiến vai trò của Mặt trận trong công tác này bị phụ thuộc, tính chủ động không cao, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác giám sát thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Một là, do sự hạn chế về trình độ chuyên môn của các cán bộ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ban công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cơ sở thường được lựa chọn là các bác cao tuổi, đã nghỉ hưu, vì vậy thường là những người có tư tưởng theo lối sống xã hội cũ, có khoảng cách rất lớn đối với sự phát triển của xã hội mới. Trong khi đó, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường các hành vi tham nhũng, tiêu cực ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và biến tướng ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Nếu như trước đây, tham nhũng chỉ đơn giản là hành vi “ăn cắp vặt”, nhận “phong bì”, lợi ích vật chất nhỏ, tính chất riêng lẻ, đơn giản, manh mún, thì nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tham nhũng đã “biến hình”, khoản tiền tham nhũững ngày càng lớn hơn, hành vi có tính cấu kết, nhiều vụ có tổ chức, có biểu hiện “nhóm lợi ích”, “lợi ích nhóm” ngày càng chặt chẽ, khép kín, có sức mạnh “lũng đoạn” các quyết sách của cả tập thể, tổ chức. Lợi ích mà tham những hướng đến không chỉ dừng lại ở vật chất nữa, mà còn phi vật chất, không chỉ diễn ra trong khu vực công, mà còn trong khu vực tư, có sự móc nối, câu kết chặt chẽ giữa người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước và doanh nghiệp… Không chỉ tham nhũng, hành vi tiêu cực còn đa dạng, tỉnh vi, phức tạp hơn, biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực công tác, đời sống chính trị của cán bộ, công chức, viên chức… Chính vì vậy, đòi hỏi cán bộ của Mặt trận Tổ quốc phải cần có chuyên môn, hiểu biết để có thể phát hiện được những hành vi tham nhũng này. Với sự thiếu sót về trình độ chuyên môn của các cán bộ sẽ rất khó để phát hiện được những vụ việc tham nhũng tỉnh vi, phức tạp. Điều này dẫn đến tình trạng số vụ tham nhũng được phát hiện từ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay ở nước ta là rất ít.
Hai là, mặc dù, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã cụ thể hóa về giám sát phản biện xã hội mà Hiến pháp năm 2013 quy định, tuy nhiên, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 mới thể chế được những vấn đề lớn chưa quy định trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý của giám sát, phản biện xã hội, chưa bao quát đầy đủ các chủ thể có thẩm quyền giám sát và phản biện xã hội. Nhân dân với tư cách là các cá nhân công dân được Hiến pháp ghi nhận có những quyền dân chủ trực tiếp như tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với các cơ quan nhà nước về những vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (khoản 1 Điều 28); công dân có quyền hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25), hiện vẫn chưa được Luật cụ thể hóa để công dân không những có điều kiện thực hiện quyền mà còn góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc công dân thực hiện quyền cơ bản của mình. Các quy định trong hệ thống văn bản pháp luật chủ yếu mới chỉ dừng lại ở xác định trách nhiệm, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động phòng, chống tham nhũng mà chưa có những quy định tạo ra những quyền tương xứng để đảm bảo cho Mặt trận thực hiện có hiệu quả những vai trò của mình.
Ba là, công tác bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho cán bộ của Mặt trận Tổ quốc chưa đa dạng, phong phú, còn mang tính hình thức, thiếu các nội dung thực tiễn nên các cán bộ khó tiếp thu được. Các chương trình tập huấn chuyên sâu về phòng, chống tham nhũng cho cán bộ của Mặt trận Tổ quốc hiện nay rất ít, chủ yếu chỉ được lồng ghép vào các chương trình tập huấn khác mà chưa được tách riêng thành một nội dung. Do đó, chưa tương xứng với tầm quan trọng về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng đặc biệt là thông qua hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Ngoài ra, việc lồng ghép vào các chương trình sẽ khiến cán bộ khó tiếp thu và hiểu biết chuyên sâu về tham nhũng để có hành động phòng, chống tham những hay phát hiện các hành vi tham nhũng.
Bốn là, nhận thức trong nhân dân hiện nay chủ yếu tin tưởng vào vai trò của các cơ quan chuyên trách nhà nước trong phòng, chống tham nhũng và ít quan tâm đến vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong công tác này. Ở nước ta hiện nay, nhân dân vẫn chủ yếu nhận thức rằng việc phòng, chống tham nhũng là của cơ quan nhà nước và ít nhận thức rằng công cuộc phòng, chống tham nhũng là của toàn Đảng, toàn dân, toàn bộ hệ thống chính trị mới có thể đi đến ngày thắng lợi.
Năm là, sự suy thoái đạo đức của bộ phận không nhỏ của cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước hiện nay. Vụ án sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á, hay còn gọi ngắn gọn là vụ Việt Á, là một vụ án hình sự điển hình về “tham nhũng có hệ thống”, đặc biệt nghiêm trọng về các tội: Vphạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, đưa hối lộ và nhận hối lộ xảy ra tại Công ty Việt Á, CDC các tỉnh, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế và các đơn vị, địa phương liên quan. Đây . Việc suy thoái đạo đức của cán bộ lãnh đạo hiện nay đã dẫn đến sự sợ sệt, tâm lý không dám tổ cáo hành vi của các cán bộ cấp dưới trong đó có cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
4. Giải pháp phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng
Thứ nhất, Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động giảm sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013.
Thực tiễn hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thời gian qua chỉ ra rằng, các kiến nghị sau giám sát, phản biện xã hội không được cơ quan, cá nhân là đối tượng chịu sự giám sát phản hồi nên không biết kết quả giám sát, phản biện như thế nào. Vì thế, Luật cũng cần phải bổ sung các quy định về trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát, phản biện xã hội trong việc phản hồi việc tiếp thu và thực hiện các kiến nghị sau giám sát, phản biện. Đồng thời, quy định trách nhiệm theo dõi đến cùng của chủ thể có quyền giám sát đối với việc tiếp thu và thực hiện các kiến nghị của mình. Nội dung của các cuộc giám sát của Mặt trận Tổ quốc chủ yếu tập trung vào những vấn đề trực tiếp gắn với cuộc sống của nhân dân, gắn với các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân mà trọng tâm là hướng vào những vấn đề nhân dân quan tâm, bức xúc đang cản trở công cuộc xây dựng ở địa phương. Theo đó, nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc trong phòng, chống tham nhũng là việc tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của các cấp chính quyền và của những cá nhân có trách nhiệm trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.
Thứ hai, Tăng cường mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Một là, tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong giám sát, phản biện xã hội việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Trước tiên, phối hợp trong công tác phòng ngừa tham nhũng. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà nòng cốt là Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở Trung ương và Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh thành trực thuộc Trung ương ở địa phương, chủ trì và phối hợp với các cơ quan tổ chức, như: phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước tổ chức phản biện xã hội về báo cáo phản biện xã hội về công tác phòng, chống tham nhũng hàng năm. Từ đó, xây dựng báo cáo phản biện xã hội về phòng, chống tham nhũng. Mặt trận cần phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên truyền, giáo dục nhân dân và các thành viên tổ chức mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, từ thực tiễn nắm bắt ý nguyện của nhân dân, đề xuất các kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa và phát hiện xử lý tham nhũng. Đồng thời, phối với các cơ quan, nhất là với chính quyền cơ sở xây dựng các quy tắc văn hóa, hương ước làng xã có nội dung liêm chính và ý thức phòng chống tham nhũng ở cơ sở.
Hai là, phối hợp trong phát hiện tham nhũng. Mặt trận phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm chỗ dựa vững chắc cho nhân dân trong việc phát hiện, xác minh các vụ việc tham những bằng việc động viên nhân dân cung cấp thông tin để nhân dân tham gia tích cực vào việc phản ánh, tố cáo hành vi tham nhũng. Thông qua hoạt động giám sát xã hội các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, nếu phát hiện những dấu hiệu tham nhũng thì kịp thời yêu cầu, kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phối hợp với các cơ quan này (như Thanh tra nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước …) tiến hành điều tra xác minh làm rõ và báo cáo với nhân dân về kết quả của việc xử lý các vụ việc tham nhũng đó.
Ba là, phối hợp trong xử lý tham nhũng. Thông qua hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp để phản ánh tâm lý, nguyện vọng của nhân dân với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xem xét, xử lý các hành vi tham nhũng, tạo ra sự đồng thuận của xã hội trong việc xử lý các vụ việc tham nhũng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vụ việc tham nhũng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phối hợp với các cơ quan truyền thông, các cơ quan đã xử lý hành vi tham nhũng tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nhằm lên án, phẫn nộ các hành vi tham nhũng, đồng thời thông qua đó giáo dục phòng ngừa tham nhũng trong các tầng lớp nhân dân.
Bốn là, phối hợp trong giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và giải quyết các vụ việc tham nhũng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tự mình tiến hành các cuộc giám sát hoặc phối hợp với các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) tiến hành giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Mặt trận tự mình hoặc chủ trì phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xử lý tham nhũng, giám sát việc giải quyết một số vụ việc, vụ án đã xử lý mà dư luận xã hội không đồng thuận để khắc phục những tiêu cực đảm bảo công lý và công bằng trong việc xử lý vụ việc và vụ án tham nhũng. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan nhà nước định kỳ kiển nghị với Đảng, Quốc hội và Chính phủ hoàn thiện chính sách, pháp luật và các giải pháp trong phòng, chống tham nhũng thông qua các cuộc giám sát xã hội.
Thứ ba, Tuyên truyền nêu cao nhận thức và động viên các tầng lớp nhân dân tin tưởng vào vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng.
Quán triệt tinh thần, trách nhiệm và nâng cao nhận thức đấu tranh, phát hiện hành vi tham nhũng trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục tổ chức tập huấn, quán triệt đầy đủ Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phòng, chống tham nhũng, lãng phí” và những nội dung cơ bản của Luật Phòng, chống tham nhũng cho tất cả cán bộ trong hệ thống Mặt trận từ Trung ương đến cơ sở, nhằm làm cho cán bộ Mặt trận hiểu rõ trách nhiệm cụ thể của Mặt trận Tổ quốc trong việc tham gia thực hiện phòng, chống tham nhũng, đồng thời nâng cao nhận thức trong cán bộ về cách thức phát hiện các hành vi tham nhũng hiện nay để góp phần nâng cao vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc[4]. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng. Cần phải tiến hành tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội để nhân dân hiểu rõ hơn tầm quan trọng của giám sát, phản biện xã hội đối với việc phòng, chống tham nhũng. Khi tuyên truyền cần tập trung vào những nội dung trọng điểm, sử dụng các từ ngữ đơn giản, đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền như tổ chức các hội thi tìm hiểu về vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc với phòng, chống tham nhũng để tạo ra sự hứng thú trong nhân dân thay vì các phương thức tuyên truyền truyền thống. Ngoài ra, cũng cần có hình thức tuyên dương khen thưởng cho các cá nhân, tập thể để khích lệ tinh thần nhân dân cùng tham gia phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, Tăng cường kiểm tra, rà soát hoạt động của các đơn vị kinh tế, các quỹ, các chương trình, dự án do cơ quan Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp mình quản lý và công tác quản lý tài chính, tài sản, các quỹ của cơ quan Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong các cơ quan, tổ chức của Mặt trận. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tự mình nghiêm chỉnh thực hiện chính sách, pháp luật và những quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Tiếp tục đổi mới tư duy nâng cao nhận thức về vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đối với công tác giám sát, phản biện xã hội nói chung và giám sát, phản biện xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham những nói riêng. Đến nay, Hiến pháp năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã ra đời và đi vào thực tiễn nhưng giám sát và phản biện xã hội vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, trong nhận thức cũng như tổ chức thực hiện, giám sát và phản biện xã hội chưa được xem là một phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà nước hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật góp phần phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Giám sát xã hội quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 là phương tiện để Mặt trận các cấp thực hiện quyền và trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ. Còn phản biện xã hội là phương tiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thực hiện quyền và trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước trước khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành chính thức các văn bản tác động đến đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Cả hai phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước trước và sau của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có tác dụng phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Không nên nghĩ rằng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát phản biện mang tính xã hội nên không có hiệu lực và hiệu quả. Nói tính chất giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát phản biện xã hội là để chỉ chủ thể giám sát là toàn thể nhân dân tham gia trong các tổ chức rộng lớn của mình nhưng đều phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với chủ thể giám sát và phản biện mang tính xã hội rộng lớn, nên sức mạnh của giám sát phản biện xã hội cũng mang tính xã hội rộng lớn, do đó, tuy không có các chế tài cụ thể nhưng sức mạnh của giám sát, phản biện xã hội lại rất sâu rộng. Đó là sự đồng tình hay lên án của dư luận xã hội và nhiều khi dư luận xã hội lên án còn nặng nề hơn là một chế tài pháp lý cụ thể.
Bên cạnh đó cần thực hiện kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm sửa đổi, cho phép Mặt trận Tổ quốc được quyền chủ động lập các đoàn giám sát khi phát hiện những vấn đề vi phạm pháp luật và có biểu hiện tham nhũng. Thực hiện tốt vai trò giám sát phòng, chống tham nhũng của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên được coi là hành động tích cực góp phần xây dựng Đảng, xây dựng đất nước, củng cố chính quyền.
Thứ năm, Tăng cường chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Trên thực tế, chức năng phản biện của Mặt trận Tổ quốc trong những năm qua chưa đạt hiệu quả cao, nội dung phản biện bị bó hẹp, không có nhiều các ý kiến trái chiều, chưa thể hiện được tiếng nói của người dân đối với các vấn đề lớn của xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, tham nhũng, tiêu cực thường được phát hiện bởi sự tố cáo của người dân và các cơ quan báo chí, vì vậy phòng, chống tham nhũng sẽ không phát huy được hiệu quả nếu không tập hợp được tiếng nói của người dân. Sự phản biện xã hội không có nghĩa là đi ngược lại với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước mà thể hiện ở việc tạo sự đồng thuận trong dân, nói lên tiếng nói của người dân, đưa những vấn đề bức xúc của xã hội để người dân thảo luận, góp ý.
Bên cạnh đó, phải xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ. Chiến lược phòng, chống tham nhũng đã đề cập đến nhóm giải pháp phòng, chống tham nhũng liên quan hoạch định chính sách và ban hành các quyết định hành chính. Để thực hiện các quy định này, cần xây dựng quy định về việc tiếp thu ý kiến của nhân dân trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư và các văn bản quản lý nhà nước. Đây là một nội dung quan trọng nhằm tăng cường sự tham gia của xã hội cũng như nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật, các quyết định quản lý nhà nước, tạo cơ sở pháp luật chặt chẽ nhằm hạn chế, ngăn ngừa tham nhũng.
ThS. Phạm Hồng Nhật
Viện Nhà nước và Pháp luật
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2019), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019-2024.
[3] Như trên.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.