I. Nhận thức chung về vai trò của HĐND cấp tỉnh trong phòng, chống tham nhũng
Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND.
Vai trò của HĐND cấp tỉnh trong phòng, chống tham nhũng (PCTN) là việc HĐND cấp tỉnh thông qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo pháp luật để ban hành nghị quyết về các biện pháp PCTN và giám sát việc tuân theo pháp luật, việc thực hiện nghị quyết của HĐND trong PCTN trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN chủ yếu thông qua việc ban hành nghị quyết về các biện pháp PCTN trong phạm vi được phân quyền trên địa bàn tỉnh và giám sát công tác PCTN tại địa phương. Vì vậy, vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN là việc các chủ thể của HĐND thông qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn ban hành nghị quyết về các biện pháp PCTN và giám sát việc tuân theo pháp luật về PCTN ở địa phương nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Nhìn chung, vai trò của HĐND cấp tỉnh trong thời gian qua đã được tăng cường thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực và đã bước đầu tác động tích cực đến công tác PCTN, bảo đảm việc thực thi pháp luật, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Nội dung ban hành các nghị quyết và giám sát cơ bản phúc đáp được yêu cầu tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm, hình thức giám sát ngày càng phong phú, huy động tối đa nguồn lực cho hoạt động này. Thực hiện vai trò của mình, HĐND cấp tỉnh đã chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế để khắc phục, góp phần quan trọng trong công tác hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước. Pháp luật về vai trò của HĐND cấp tỉnh đã dần được hoàn thiện cả về nội dung và hình thức giám sát như: Thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh được quy định cụ thể hơn; phạm vi vai trò của từng chủ thể trong HĐND, đại biểu HĐND được phân định rõ ràng hơn; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu sự giám sát trong cung cấp thông tin, tài liệu, thực hiện kết luận giám sát được quy định rõ ràng, minh bạch hơn… đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác PCTN ở địa phương.
Tuy nhiên, vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN thời gian qua vẫn còn những bất cập, hạn chế. Cụ thể như sau:
Một là, về thực tiễn ban hành nghị quyết
– Chất lượng của một số nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trong PCTN chưa bảo đảm được các yêu cầu về căn cứ pháp lý, cơ sở thực tiễn. Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trong PCTN ở một số địa phương chưa được xây dựng và thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, từ khâu đề xuất nội dung, chương trình ban hành nghị quyết; dự báo, đánh giá tác động; soạn thảo, lấy ý kiến tham gia; thẩm định, thẩm tra; thảo luận, quyết định ban hành.
– Nội dung một số nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trong PCTN chưa đánh giá đúng tình hình, thực trạng, yêu cầu đời sống, chưa có tính khoa học, thống nhất và chưa đáp ứng được kỳ vọng của người dân về công cuộc PCTN. Một số nghị quyết ban hành tính phù hợp với thực tiễn chưa cao, tổ chức thực hiện phát sinh bất cập, nhất là những nghị quyết cần nguồn lực thực hiện lớn; liên quan đến PCTN.
– Việc tổ chức giám sát các nghị quyết về PCTN do HĐND tỉnh ban hành chưa được chú trọng đúng mức; một số nội dung của nghị quyết được ban hành khi tổ chức thực hiện chưa đảm bảo hiệu quả, còn bất cập. Việc soạn thảo nghị quyết, hồ sơ liên quan trình HĐND còn chậm, chưa đảm bảo thời gian theo luật định, làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra của các ban HĐND cũng như chất lượng nghiên cứu, xem xét để quyết định thông qua nghị quyết của đại biểu HĐND tại kỳ họp.
Hai là, về thực tiễn giám sát của HĐND trong PCTN
– Hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN chưa cao. Số lượng, quy mô, phạm vi giám sát chưa đáp ứng yêu cầu của thực tế; trong một số trường hợp chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan, chưa xác định rõ biện pháp và chế tài xử lý phù hợp; việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các kiến nghị có trường hợp còn chưa quyết liệt.
– Biện pháp, hình thức giám sát chưa đa dạng; chưa coi trọng đúng mức công tác khảo sát thực tế; có nội dung giám sát còn dàn trải, chung chung, chưa đi vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc mà dư luận xã hội, Nhân dân và cử tri quan tâm. Việc xử lý, kiểm tra, đôn đốc kết quả giải quyết kiến nghị sau giám sát đối với cơ quan chịu sự giám sát chưa chặt chẽ, kịp thời nên có kiến nghị chưa đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả. Hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp chưa được thực hiện theo quy định của pháp luật. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp có lúc còn mang tính hình thức, đại biểu HĐND còn thụ động, chưa nêu cao vai trò của người đại biểu dân cử. Hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp còn hạn chế, ít đại biểu đặt vấn đề nội dung chất vấn trực tiếp tại kỳ họp; khi thực hiện chất vấn, có nơi, có vấn đề cũng chưa tranh luận để giải quyết rốt ráo, dứt điểm đến cùng. Việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các ý kiến, kiến nghị của cử tri, những nội dung cam kết sau trả lời chất vấn có nơi, có việc chưa tập trung nên hiệu quả chưa cao, chưa kịp thời, đầy đủ.
– Hoạt động giám sát chuyên đề về công tác PCTN chủ yếu do Thường trực, các Ban HĐND tỉnh thực hiện; hoạt động giám sát của đại biểu HĐND còn hạn chế; một số thành viên đoàn giám sát chưa sắp xếp thời gian tham gia đầy đủ đợt giám sát.
– Một số kết luận, kiến nghị sau giám sát còn chung chung, chưa cụ thể và chưa đưa ra mốc thời gian để đối tượng giám sát thực hiện và báo cáo kết quả.
– Một số cơ quan, đơn vị địa phương chưa quan tâm, thực hiện các kiến nghị sau giám sát; còn có kiến nghị chưa được xem xét giải quyết; chậm gửi báo cáo thực hiện kết quả giám sát, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động giám sát.
– Việc theo dõi, đôn đốc giải quyết của các cơ quan dân cử, đại biểu dân cử chưa kịp thời. Hoạt động tái giám sát của HĐND chưa thường xuyên.
– Công tác chuẩn bị kế hoạch, nội dung, chương trình giám sát, tài liệu, hồ sơ có liên quan của cơ quan tham mưu có lúc chưa kịp thời.
– Có địa phương chưa tổ chức được hoạt động giải trình, chất vấn tại phiên họp Thường trực HĐND giữa hai kỳ họp HĐND; hiệu quả của phiên giải trình chưa đạt được như mong muốn. Việc xác định vấn đề và đề xuất nội dung chất vấn, giải trình về công tác PCTN của một số Tổ đại biểu, đại biểu HĐND chưa mang tính tổng quát, bao trùm những vấn đề mà cử tri và Nhân dân quan tâm.
– Kỹ năng chất vấn, đặt vấn đề yêu cầu giải trình về công tác PCTN của một số đại biểu HĐND còn hạn chế.
– Những kiến nghị sau giám sát của các cơ quan của HĐND đối với những vấn đề, vụ việc cụ thể chưa được các cơ quan, tổ chức hữu quan tiếp thu, chấn chỉnh một cách nhanh chóng, kịp thời mà phải qua đôn đốc, nhắc nhở nhiều lần.
– Năng lực một số đại biểu HĐND cấp tỉnh chưa đáp ứng tốt vị trí, vai trò của mình, trong khi đó hoạt động giám sát công tác PCTN tại địa phương lại khá rộng, toàn diện và chuyên sâu đòi hỏi chủ thể giám sát phải có những kiến thức chuyên môn nhất định ở các lĩnh vực (kinh tế, tài chính, đất đai, xây dựng,…) thì mới có thể phân tích, đánh giá được chính xác các vấn đề để thực hiện tốt chức năng giám sát. Do đó, việc lựa chọn được những người có đủ trình độ, năng lực và bảo đảm tính khách quan để nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh là một vấn đề đang đặt ra hiện nay.
Mặt khác, hoạt động giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của các cơ quan chức năng còn chưa thường xuyên; việc lồng ghép giám sát công tác PCTN với giám sát trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội chưa được chú trọng thực hiện. HĐND cấp tỉnh chưa đưa ra được nhiều kiến nghị xác đáng để nâng cao hiệu quả công tác PCTN. Việc theo dõi, đôn đốc thực hiện kiến nghị giám sát chưa sát sao. HĐND cấp tỉnh chưa tiến hành được nhiều cuộc giám sát chuyên đề về PCTN, về quản lý kinh tế – xã hội nhằm PCTN. Số lượng, quy mô và phạm vi giám sát tuy có tăng lên nhưng mới chỉ đáp ứng được một phần đòi hỏi của thực tế. Một bộ phận đại biểu kiêm nhiệm chưa dành thời gian thỏa đáng cho hoạt động của cơ quan dân cử mà mình là thành viên; kinh phí hoạt động còn hạn chế. Phương thức giám sát còn có điểm bất cập, giám sát ở cơ sở chủ yếu vẫn là nghe trình bày báo cáo nên kết quả đạt được chưa cao. Việc kiến nghị xử lý trách nhiệm người đứng đầu trong việc buông lỏng quản lý, để xảy ra những hạn chế, yếu kém trong ngành, lĩnh vực mình phụ trách ít được thực hiện…
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác PCTN ở địa phương, cần được quan tâm hơn nữa của cả hệ thống chính trị và bằng nhiều giải pháp của các thiết chế khác nhau, trong đó HĐND có vai trò quan trọng. Chính vì vậy, bài viết này tập trung đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN.
II. Một số giải pháp nâng cao vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN
1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN
Nhận thức về vị trí, vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN chưa đúng mức; trình độ, năng lực, trách nhiệm của một số đại biểu HĐND có phần còn hạn chế. Không chỉ đối với cán bộ, công chức và nhân dân nói chung mà ngay cả một số đại biểu HĐND vẫn chưa nhận thức được đầy đủ bản chất, vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN. HĐND cấp tỉnh có vai trò là một thiết chế kiểm soát quyền lực nhằm PCTN. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động của HĐND cấp tỉnh thời gian qua cho thấy những kiến nghị HĐND cấp tỉnh trong PCTN có hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là chủ tịch HĐNĐ và người đứng đầu các ngành, các cấp ở địa phương. Thời gian tới, phải tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là chủ tịch HĐNĐ và người đứng đầu các ngành, các cấp ở địa phương góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN và giá trị của kết luận, kiến nghị của HĐND. Trên cơ sở đó, đổi mới tư duy pháp lý, xây dựng hoàn thiện thể chế vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN.
Nâng cao nhận thức về vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN vừa là đòi hỏi từ phía cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là chủ tịch HĐNĐ và người đứng đầu các ngành, các cấp ở địa phương vừa là đòi hỏi từ phía đối tượng giám sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình giám sát và từ chính đội ngũ những người làm công tác HĐND. Vì chỉ khi nhận thức đúng vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN thì cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là chủ tịch HĐNĐ và người đứng đầu các ngành, các cấp ở địa phương quan tâm đến vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN, tăng cường hoạt động giám sát, thông qua đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cơ quan, tổ chức cá nhân.
Thay đổi quan niệm, nhận thức về phạm vi giám sát rộng của HĐND, các chủ thể giám sát của HĐND trước hết xuất phát từ quan niệm về quyền lực nhà nước ở địa phương của HĐND. Mặc dù trong Hiến pháp 2013 đã thể hiện tư tưởng kiểm soát quyền lực lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng trên thực tế, vẫn còn quan niệm HĐND có quyền lực cao nhất ở địa phương. Sau khi ban hành pháp luật, nhiệm vụ tiếp theo của HĐND là xem xét liệu các văn bản quy phạm pháp luật có được thực thi đúng theo các mục tiêu đề ra không. Nội dung của giám sát tập trung vào trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của UBND.
PCTN, tiêu cực là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; phải tiến hành kiên trì, kiên quyết, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm. Do vậy, từng ban, từng tổ đại biểu HĐND cấp tỉnh cần nhận thức rõ là phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thông qua kế hoạch, nhiệm vụ cụ thể. Mỗi đại biểu HĐND phải tự mình kiểm soát hoạt động của chính mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trước cử tri để thực sự đóng góp hiệu quả vào công tác PCTN tại địa phương. Qua đó, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng để giữ vững ổn định chính trị, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh của địa phương.
Vì vậy, trong thời gian tới cần nâng cao nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là chủ tịch HĐNĐ, đại biểu HĐND cấp tỉnh và người đứng đầu các ngành, các cấp ở địa phương nhằm nhận diện đầy đủ bản chất, vai trò và tầm quan trọng của HĐND cấp tỉnh trong PCTN.
2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật
2.1. Giải pháp nâng cao chất lượng việc xây dựng và ban hành nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trong PCTN
Để các nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trong PCTN đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả, điều quan trọng trước hết là chất lượng của nghị quyết phải bảo đảm được các yêu cầu về căn cứ pháp lý, cơ sở thực tiễn; nội dung nghị quyết phải đánh giá đúng tình hình, thực trạng, yêu cầu đời sống, có tính khoa học, thống nhất và đáp ứng được kỳ vọng của người dân về công cuộc PCTN. Đồng thời, nghị quyết của HĐND phải được xây dựng và thực hiện theo một quy trình hết sức chặt chẽ, từ khâu đề xuất nội dung, chương trình ban hành nghị quyết; dự báo, đánh giá tác động; soạn thảo, lấy ý kiến tham gia; thẩm định, thẩm tra; thảo luận, quyết định ban hành; tổ chức thực hiện; theo dõi, giám sát việc tổ chức thực hiện, phát hiện những khó khăn, vướng mắc, hạn chế để tập trung tháo gỡ, đưa nghị quyết về các biện pháp PCTN đi vào cuộc sống. Muốn vậy, nghị quyết của HĐND cấp tỉnh phải được thực hiện theo một quy trình hết sức chặt chẽ, có thể theo các bước sau:
Một là, phải phát hiện vấn đề cần thiết phải ban hành nghị quyết. Việc này có thể do Thường trực HĐND, Ủy ban nhân dân, các cơ quan chức năng phát hiện đề xuất. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, các biện pháp PCTN, có rất nhiều nội dung cần được quyết định, song HĐND cùng một lúc không thể quyết định tất cả, vì ngoài việc tổ chức chuẩn bị để HĐND ra quyết định thì các nguồn lực đảm bảo để thực hiện nghị quyết, trong đó yếu tố ngân sách là hết sức quan trọng, trong khi ngân sách đang rất hạn hẹp thì cũng không thể ban hành quá nhiều nghị quyết. Cho nên ở khâu này, xác định đúng vấn đề cần ưu tiên để ban hành nghị quyết là việc đáng quan tâm nhất. Nội dung được lựa chọn cần thỏa mãn các yêu cầu: Đáp ứng được nguyện vọng của đa số nhân dân; nhằm thể chế hóa các đường lối chủ trương chính sách của Đảng; đảm bảo tính cần thiết, khả thi, phù hợp với thực tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và PCTN của địa phương.
Hai là, dự thảo nghị quyết về các biện pháp PCTN thường được giao cho một cơ quan chuyên môn chủ trì có sự phối hợp của các cơ quan khác. Để khâu dự thảo nghị quyết có chất lượng, cơ quan chủ trì cần lựa chọn người có chuyên môn sâu, am hiểu pháp luật và thực tiễn thực hiện. Phải đảm bảo nghị quyết được dự thảo đáp ứng giải quyết được các yêu cầu do thực tiễn đặt ra, phù hợp với các quy phạm pháp luật, có đủ nguồn lực để thực hiện.
Ba là, cần tham vấn ý kiến các cơ quan chức năng và các đối tượng chịu tác động của nghị quyết về các biện pháp PCTN. Bước này chủ yếu do cơ quan soạn thảo thực hiện, với mục đích là nghị quyết được ban hành phải phù hợp với thực tiễn và nguyện vọng của người dân, có tính thống nhất đồng bộ với các nghị quyết khác. Khi cần thiết cơ quan thẩm tra cũng tổ chức tham vấn để thu thập thêm thông tin làm cơ sở cho phản biện trong thẩm tra.
Bốn là, nâng cao chất lượng thẩm định, thẩm tra của cơ quan tư pháp và các ban HĐND cấp tỉnh. Thẩm định do cơ quan tư pháp thực hiện với mục đích nghị quyết ban hành phải đảm bảo thể thức, phù hợp với các quy định của pháp luật. Còn thẩm tra của các ban HĐND nhằm giúp cho HĐND bàn bạc thảo luận để quyết định, trong đó các kiến nghị, đề xuất về những nội dung chưa phù hợp, thiếu tính khả thi hoặc những nội dung còn có ý kiến khác nhau. Chính vì vậy, một trong những giải pháp mà HĐND tỉnh đã áp dụng là các ban HĐND cần tham gia ngay từ đầu và trong suốt quá trình xây dựng dự thảo nghị quyết về các biện pháp PCTN cùng cơ quan soạn thảo.
Năm là, việc trình HĐND cấp tỉnh tại kỳ họp để thảo luận, biểu quyết thông qua. Thông qua nghị quyết tại các kỳ họp HĐND cấp tỉnh phụ thuộc vào năng lực, ý thức trách nhiệm của từng đại biểu HĐND. Để không ngừng nâng cao năng lực cho các đại biểu HĐND, ngoài việc tự thân từng đại biểu phải phát huy vai trò trách nhiệm, tự học hỏi, bồi dưỡng, xâm nhập thực tế thì Thường trực HĐND cấp tỉnh và các cơ quan chuyên trách phải hết sức quan tâm công tác tập huấn, trang bị kiến thức cơ bản cũng như kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động, nhất là với các đại biểu mới tham gia khóa đầu. Các cơ quan, đơn vị nơi đại biểu công tác, sinh sống phải có trách nhiệm bố trí thời gian cũng như các điều kiện khác cho đại biểu hoạt động một cách thuận lợi nhất.
Sáu là, việc tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, đây là nhiệm vụ chủ yếu của Ủy ban nhân dân. Nghị quyết của HĐND tỉnh sau khi ban hành cần phải được các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân liên quan triển khai thực hiện nghiêm túc ngay từ khâu quán triệt, tuyên truyền đến xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, bố trí nguồn lực. Có thể nói đây là khâu rất quan trọng, một nghị quyết dù nội dung hết sức đúng đắn, cần thiết nhưng khâu tổ chức thực hiện không tốt chắc chắn sẽ không mang lại kết quả như mong muốn.
Sau cùng là công tác giám sát quá trình tổ chức thực hiện, sơ kết, tổng kết, đánh giá. Sau khi nghị quyết được ban hành, Thường trực HĐND cấp tỉnh, các Ban, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND có nhiệm vụ giám sát quá trình tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành; thông qua đó để đôn đốc các cơ quan chức năng trong việc thực hiện, kịp thời phát hiện những thiếu sót, bất cập để kiến nghị, yêu cầu Ủy ban nhân dân và các cơ quan liên quan có các giải pháp đảm bảo nghị quyết được thực thi có hiệu quả cao nhất. Sau khi ban hành nghị quyết, HĐND cần giao trách nhiệm cho Thường trực HĐND cấp tỉnh và các Ban HĐND tăng cường giám sát, nắm bắt thông tin kịp thời phát hiện những bất cập trong quá trình triển khai thực hiện. Chú trọng thông tin phản hồi của các cơ quan, cá nhân, tổ chức chịu tác động, để kịp thời chỉ đạo đôn đốc, điều chỉnh bổ sung hoặc bãi bỏ các qui định chưa phù hợp, bảo đảm các nghị quyết chuyên đề của HĐND cấp tỉnh phát huy tác dụng tích cực. Tổ chức giám sát, rà soát các nội dung đã ban hành Nghị quyết nhưng không còn phù hợp với tình hình hình thực tế, chủ động yêu cầu UBND tỉnh bổ sung sửa đổi hay xây dựng chính sách mới trình HĐND cấp tỉnh hoặc kiến nghị HĐND điều chỉnh nội dung nghị quyết đảm bảo phát huy hiệu quả thiết thực.
Định kỳ phải tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả thực hiện, kịp thời rút ra những mặt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân. Thông qua giám sát, sơ kết, tổng kết sẽ đề nghị HĐND cấp tỉnh xem xét quyết định bổ sung, sửa đổi, hoặc bãi bỏ những nội dung không phù hợp đảm bảo nghị quyết tiếp tục phát huy hiệu quả.
2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát công tác PCTN của HĐND cấp tỉnh
Một là, nghiên cứu quy định thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, bổ sung quy định cụ thể về hậu quả pháp lý đối với những trường hợp Tòa án nhân dân hoặc Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp không thực hiện đúng các quy định pháp luật trong tổ chức và hoạt động mà thông qua hoạt động giám sát HĐND đã phát hiện. Hoặc là giới hạn lại thẩm quyền và đối tượng giám sát của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng HĐND chỉ tập trung giám sát vào đối tượng chủ yếu là Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Hai là, cơ cấu hợp lý số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh theo hướng giảm số lượng đại biểu kiêm nhiệm và tăng số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách. Việc xác định số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách ở từng đơn vị hành chính nhiệm kỳ 2021-2026 căn cứ vào quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019; Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng; Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Quốc hội về Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể như sau: Đối với cấp tỉnh, số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND tối đa là 02 người; số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng ban, Phó Trưởng ban ở mỗi Ban của HĐND tối đa là 02 người, trừ Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND thành phố tối đa là 03 người; số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng ban, Phó Trưởng ban và Ủy viên ở mỗi Ban của HĐND thành phố tối đa là 04 người. Đối với thành phố Đà Nẵng, số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND thành phố tối đa là 02 người; số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách giữ chức vụ Trưởng ban, Phó Trưởng ban ở mỗi Ban của HĐND thành phố tối đa là 03 người. Theo quy định hiện hành thì số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách là quá thấp và cần phải tăng thêm. Việc làm này vừa tạo điều kiện để đại biểu HĐND toàn tâm, toàn ý tập trung cho nhiệm vụ của người đại biểu, vừa là giải pháp để khắc phục có hiệu quả tình trạng e ngại, nể nang trong thực hiện chức năng giám sát, đặc biệt là giám sát tại kỳ họp thông qua việc chất vấn và trả lời chất vấn của lãnh đạo Ủy ban nhân dân và người đứng đầu các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Ba là, với số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh như hiện nay, bảo đảm yêu cầu về cơ cấu các thành phần thì việc lựa chọn thành viên các Ban HĐND vừa đảm bảo được năng lực chuyên môn, vừa đảm bảo tính độc lập tương đối và khách quan để thực hiện tốt chức năng thẩm định, giám sát các lĩnh vực chuyên môn được HĐND phân công như giám sát công tác PCTN là rất khó. Đối với HĐND thành phố trực thuộc trung ương nhiệm kỳ 2021 – 2026, quy định thành phố trực thuộc trung ương có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 01 triệu dân thì có không quá 85 đại biểu (trước là 95 đại biểu); Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh có 95 đại biểu (nhiệm kỳ liền trước là 105 đại biểu). Đối với HĐND cấp tỉnh quy định tỉnh miền núi, vùng cao có từ 500.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 500.000 dân trở lên có tối đa 75 đại biểu (nhiệm kỳ liền trước là 85 đại biểu); tỉnh còn lại có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 01 triệu dân trở lên được bầu không quá 85 đại biểu (nhiệm kỳ liền trước là 95 đại biểu). Với số lượng đại biểu như hiện nay, để hoàn thành tốt nhiệm vụ, cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phục vụ cho đại biểu, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Bốn là, cần bổ sung quy định biện pháp chế tài cụ thể để bảo đảm các kiến nghị sau giám sát của các ban của HĐND cấp tỉnh được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp thu, chấn chỉnh một cách nhanh chóng, kịp thời, tránh tình trạng phải đôn đốc, nhắc nhở nhiều lần như hiện nay.
Năm là, ban hành các quy chế, nội quy liên quan theo thẩm quyền: Trên cơ sở Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND; chủ động tổ chức rà soát theo thẩm quyền, ban hành các quy chế, nội quy liên quan đến hoạt động của HĐND, bảo đảm tất cả các hoạt động đều được thực hiện theo quy định, quy chế.
Sáu là, bổ sung đối tượng chất vấn của đại biểu HĐND là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp. Tại điểm a, b, c khoản 1, Điều 5 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND giám sát hoạt động của “UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp”. Tuy nhiên, tại điểm đ, khoản 1, Điều 5 quy định: “Đại biểu HĐND chất vấn Chủ tịch UBND, thành viên khác của UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cùng cấp”. Theo Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp. Do vậy, đồng chí Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh không phải là “Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND tỉnh” nên không thuộc đối tượng chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh. Như vậy trên thực tế, trong giám sát hoạt động của “cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp” trên địa bàn, đại biểu HĐND tỉnh không thể thực hiện chất vấn đối với Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh vì không thuộc đối tượng chất vấn theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 5. Vì vậy khi sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND cần bổ sung thêm đối tượng chất vấn của đại biểu HĐND tại điểm đ, khoản 1, Điều 5 đối với “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp” nhằm đảm bảo giám sát toàn diện đối với hoạt động cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn.
Bảy là, bổ sung thêm đối tượng giải trình tại phiên họp Thường trực HĐND cấp tỉnh. Điều 104 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND tỉnh “giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật tại địa phương” và được cụ thể hoá hơn tại điểm b, khoản 1, Điều 5 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND như sau: “Thường trực HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND cùng cấp; giám sát hoạt động của UBND, các cơ quan thuộc UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và HĐND cấp dưới…”. Tuy nhiên, Điều 72 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định: “Căn cứ vào chương trình giám sát, Thường trực HĐND yêu cầu thành viên của UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp giải trình và cá nhân có liên quan tham gia giải trình”. Như vậy, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định Thường trực HĐND tỉnh có thẩm quyền giám sát hoạt động Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp nhưng chỉ được quyền yêu cầu giải trình đối với Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân mà không quy định đối với Thủ trưởng “Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp” là chưa phù hợp và không thống nhất.
Qua thực tiễn cho thấy, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi thuộc thẩm quyền của thủ trưởng một số cơ quan như Bảo hiểm xã hội, Thuế, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và Chủ tịch UBND cấp huyện, thành phố cần thiết phải thực hiện giải trình về “vấn đề mà Thường trực HĐND quan tâm”. Song, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương chỉ thuộc đối tượng “tham gia giải trình” chứ không phải đối tượng “giải trình” chính.
3. Giải pháp về tổ chức thực hiện nhằm nâng cao vai trò của HĐND cấp tỉnh trong PCTN
– Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN
Thực hiện nguyên tắc, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống chính trị; trong đó, cần đảm bảo lãnh đạo của Ban Thường vụ cấp ủy cùng cấp đối với tổ chức, hoạt động của HĐND. Đảng đoàn HĐND cấp tỉnh chủ động tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đảm bảo tổ chức, hoạt động của HĐND đúng chủ trương, định hướng của Đảng và quy định của pháp luật. Chỉ đạo sâu sát việc xây dựng kế hoạch giám sát, bảo đảm cụ thể, thiết thực, có tính khả thi, bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc giám sát; bố trí lực lượng và các điều kiện cần thiết để triển khai cuộc giám sát đạt kết quả. Chỉ đạo thường xuyên việc triển khai các biện pháp nghiệp vụ trong quá trình giám sát. Cụ thể: Thường trực HĐND các cấp tham mưu cho cấp ủy cùng cấp ban hành nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HĐND cấp tỉnh. Ban Chỉ đạo PCTN cấp tỉnh tập trung tăng cường chỉ đạo các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN tại địa phương.
– Tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa HĐND cấp tỉnh với Ban Chỉ đạo PCTN cấp tỉnh, UBND tỉnh, Uỷ ban mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh và các cơ quan liên quan trong công tác PCTN
Thường trực HĐND cấp tỉnh chủ động xây dựng và thực hiện nghiêm Quy chế phối hợp với Ban Chỉ đạo PCTN cấp tỉnh, UBND tỉnh, Uỷ ban mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh để giải quyết các công việc có liên quan, nhất là việc thống nhất chuẩn bị chương trình các kỳ họp, hoạt động tiếp xúc cử tri, chất vấn, giám sát và giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri, giải quyết kiến nghị sau giám sát, sau chất vấn của HĐND tỉnh, tổ chức kỳ họp HĐND, các cuộc họp Thường trực HĐND, giải quyết các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp. Tùy từng trường hợp cụ thể, HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch hoạt động, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả. Quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế của Ban Nội chính tỉnh ủy, thành ủy để nâng cao năng lực, hiệu quả tham mưu, phục vụ hoạt động Ban Chỉ đạo PCTN cấp tỉnh. Tăng cường mối quan hệ, phối hợp giữa HĐND với Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong kiểm tra, rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các Quy chế phối hợp hoạt động cho phù hợp với thực tiễn và quy định của pháp luật trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan; nâng cao chất lượng các Hội nghị giao ban, trao đổi kinh nghiệm giữa Thường trực HĐND cấp tỉnh với Thường trực HĐND cấp huyện. Phát huy cơ chế tham gia vào hoạt động Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, HĐND cấp tỉnh chỉ đạo các cấp chính quyền cấp tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố, tổ chức chính trị – xã hội các cấp, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về PCTN.
Quy định rõ phạm vi giám sát của từng chủ thể giám sát và trách nhiệm phối hợp giữa các chủ thể giám sát để có sự thống nhất; xác định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan của Quốc hội, HĐND cấp tỉnh có chung đối tượng chịu sự giám sát khi có vấn đề nảy sinh. Về công tác chỉ đạo, điều hòa, phối hợp trong hoạt động giám sát, cần quy định cơ chế phối hợp giữa Thường trực và các Ban của HĐND ở địa phương. Trong đó, cần quy định rõ nhiệm vụ của Thường trực HĐND, điều hòa phối hợp hoạt động giám sát của các Ban của HĐND ở địa phương.
– Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong PCTN
Tăng cường công tác giám sát của HĐND cấp tỉnh trong PCTN thông qua các hoạt động như: chất vấn, giám sát chuyên đề, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kiến nghị của cử tri. Xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và được tiến hành toàn diện, công khai, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, dư luận quan tâm về tham nhũng, tiêu cực, về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Tăng cường thực hiện hoạt động giám sát chuyên đề. Theo đó, giám sát chuyên đề của HĐND, Thường trực HĐND và mỗi Ban HĐND tỉnh thực hiện hằng năm từ 2 đến 3 cuộc; nội dung giám sát là những vấn đề trong quá trình thực hiện còn nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế, những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc cho người dân thông qua dư luận, thông tin, báo chí, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân… Để đề cương báo cáo giám sát đúng trọng tâm và đủ các thông tin phục vụ cho nội dung giám sát, việc dự thảo đề cương báo cáo giám sát cần được xây dựng trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của đối tượng giám sát, các thông tin phản ánh trên báo chí, qua tiếp xúc cử tri, tiếp công dân và có thể tham khảo đề cương của HĐND các địa phương khác. Kết hợp chặt chẽ giữa nghe báo cáo và khảo sát thực tế. Thành viên Đoàn giám sát phải nắm vững chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật về nội dung giám sát, nghiên cứu kỹ các báo cáo, kết hợp với xem xét các hồ sơ cần thiết có liên quan, ý kiến cần có tính chất vấn, phản biện… đặc biệt, cần thu thập thêm thông tin tại các buổi khảo sát thực tế, có xác minh tại chỗ để làm căn cứ kết luận, kiến nghị sau giám sát. Báo cáo, kết luận giám sát phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, trung thực, sát thực tế và quan trọng nhất là phải chỉ rõ những hạn chế, tồn tại cụ thể, những vướng mắc, khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, nêu ra được những kiến nghị, đề xuất rõ ràng, chính xác, phù hợp, khả thi để các cơ quan tổ chức thực hiện được, tránh việc kết luận, kiến nghị chung chung, gây khó khăn cho việc thực hiện. Trước các kỳ họp thường kỳ của HĐND, tiến hành đánh giá kết quả thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát của các cơ quan đơn vị, tổng hợp báo cáo Thường trực HĐND tỉnh để trình HĐND tỉnh. Việc theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị sau giám sát chỉ chấm dứt khi các cơ quan, đơn vị thực hiện hoàn thành các kết luận, kiến nghị. Khuyến khích các Tổ đại biểu tổ chức giám sát nơi mình ứng cử những vấn đề bức xúc, khó khăn của cử tri tại địa phương.
– Nâng cao năng lực, bồi dưỡng kỹ năng hoạt động cho đại biểu HĐND cấp tỉnh
Một là, chất lượng các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trước hết phụ thuộc vào năng lực của từng đại biểu HĐND. Do đó, việc lựa chọn bầu cử đại biểu HĐND không nên nặng về cơ cấu, nhất là cơ cấu mang tính hình thức, mà nên coi trọng phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực công tác, tâm huyết với hoạt động của HĐND, có năng lực đóng góp vào hoạt động của HĐND, có điều kiện thực hiện nhiệm vụ đại biểu.
Hai là, định kỳ hàng năm, mỗi đại biểu HĐND cấp tỉnh phải báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ đại biểu HĐND với cử tri nơi mình được bầu. Đây là việc phát huy quyền giám sát của Nhân dân đối với đại biểu dân cử, buộc mỗi đại biểu phải hoạt động tốt hơn, có trách nhiệm hơn trước xã hội và cử tri. Đồng thời thể hiện đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ là “người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương”. Từ đó chủ động, tích cực tham gia các hoạt động thuộc trách nhiệm của người đại biểu, thể hiện đầy đủ quyền hạn của mình trên các lĩnh vực hoạt động của người đại biểu HĐND.
Ba là, thường xuyên cung cấp đầy đủ tài liệu, nhất là các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, các luật mới được ban hành, các thông tin về tình hình kinh tế – xã hội của địa phương cho đại biểu HĐND cấp tỉnh. Đồng thời, mỗi đại biểu phải chủ động, tích cực nắm bắt thông tin, nắm tình hình thực tế của địa phương để tham gia thực hiện tốt công tác giám sát, thẩm tra, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng tại các kỳ họp của HĐND.
Bốn là, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hoạt động cho đại biểu, nhất là các kiến thức về quản lý Nhà nước, pháp luật, kỹ năng nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin, tiếp xúc cử tri, giám sát tại kỳ họp, giám sát thường xuyên, chất vấn, kỹ năng thẩm tra,… cho đại biểu HĐND, giúp đại biểu tăng cường vai trò của mình tại các kỳ họp HĐND cấp tỉnh.
Năm là, mỗi đại biểu cần chủ động nâng cao trình độ, rèn luyện kỹ năng để thực hiện tốt nhiệm vụ theo luật định. Cần tích cực nghiên cứu, nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của HĐND; thường xuyên trau dồi kỹ năng hoạt động, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin để giúp HĐND ban hành nghị quyết đúng đắn, đảm bảo phù hợp thực tiễn địa phương. Tăng cường tiếp xúc cử tri để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, đặc biệt là phát hiện những bất cập, vướng mắc trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ để kiến nghị sửa đổi, tháo gỡ kịp thời, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động HĐND và thật sự là người đại biểu đại diện của Nhân dân.
– Tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn và nhất là công tác quy hoạch, đạo tạo, lựa chọn và giới thiệu ứng cử làm đại biểu HĐND cấp tỉnh
Chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND chịu sự tác động, ảnh hưởng lớn bởi chất lượng hoạt động của Thường trực, các Ban, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND. Do đó, để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, phải bắt đầu từ việc quy hoạch, đào tạo, dự nguồn cán bộ giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND, nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm, năng lực hoạt động và bản lĩnh chính trị của từng đại biểu HĐND. Cần gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch, giới thiệu ứng cử làm đại biểu HĐND và sử dụng công chức trong các cơ quan của Hội đồng. Khi sử dụng đúng người, đúng chuyên môn không những nâng cao được hiệu quả công việc, cá nhân phát huy được năng lực của mình mà còn tạo ra tâm lý tích cực cho quá trình phấn đấu của công chức. Đó chính là sự trọng dụng kiến thức, kỹ năng có được của công chức. Ngược lại sử dụng công chức không đúng quy hoạch đào tạo, sẽ là sự lãng phí lớn về chi phí đào tạo bồi dưỡng, về nguồn nhân lực.
– Chú trọng tổng kết thực tiễn các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN
Qua tổng kết thực tiễn, HĐND cấp tỉnh sẽ kịp thời tìm ra những bất cập, hạn chế trong tổ chức thực hiện các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN, để từ đó có những biện pháp cụ thể về hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN phù hợp.
Công tác tổng kết rút kinh nghiệm các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN là một trong nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động này. Thông qua hoạt động tổng kết, rút kinh nghiệm, HĐND cấp tỉnh có thể đánh giá một cách tổng quát về thực trạng hoạt động; thấy được những mặt mạnh, mặt yếu của hoạt động; tìm ra các nguyên nhân của những hạn chế; từ đó có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục kịp thời. Ngoài ra, tổng kết rút kinh nghiệm sẽ có được những bài học quý báu trong các hoạt động của HĐND cấp tỉnh; thấy được những nhân tố tích cực ở một ngành, lĩnh vực hoặc địa phương để từ đó phổ biến, nhân rộng ra các cấp, các ngành, góp phần PCTN đạt hiệu quả. HĐND cấp tỉnh cần coi đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN. Trong thời gian tới, cần xác định rõ việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về các hoạt động của Hội đồng là nội dung cần phải được thực hiện đồng thời với việc tổng kết công tác các hoạt động của Hội đồng hàng năm.
Công tác tổng kết, đánh giá các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Định kỳ sáu tháng, 01 năm phải có những sơ kết, tổng kết và nhận định về những ưu điểm, nhược điểm trong việc thực hiện các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN và phổ biến sâu rộng đến HĐND các cấp. Bên cạnh đó, việc tổng kết và đánh giá thực tiễn các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN cũng cần được coi là một nội dung trong báo cáo công tác của HĐND cấp tỉnh trong PCTN lên cơ quan cấp trên và phải rút ra được những bài học làm kinh nghiệm cho những giai đoạn tiếp theo đối với các hoạt động này. Ngoài ra, cần có những tổng kết đánh giá dưới góc độ khoa học, tiếp tục thực hiện các đề tài khoa học nghiên cứu về các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN để rút ra những vấn đề có tính lý luận, đánh giá đúng đắn thực trạng và đưa ra giải pháp, kiến nghị có giá trị phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung về thể chế và nâng cao hiệu quả các hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN.
– Đảm bảo các điều kiện phục vụ hoạt động của HĐND cấp tỉnh
Để hoạt động của đại biểu đạt hiệu quả, trước hết thông tin phục vụ cho hoạt động phải mang tính khách quan, khoa học, độc lập và kịp thời được xử lý từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể từ các cơ quan chấp hành; từ tổ chức chính trị – xã hội; từ hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, giám sát, khảo sát. Khi có đầy đủ thông tin sẽ giúp đại biểu HĐND phân tích, đánh giá đầy đủ, đúng đắn, khách quan và kiến nghị các biện pháp giải quyết phù hợp; đại biểu tự tin hơn trong biểu quyết. Vì vậy, việc cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND. Để làm được điều này cần phải có công cụ hỗ trợ cho đại biểu HĐND, trong khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không quy định cụ thể phương tiện, định mức trang bị phương tiện đảm bảo phục vụ hoạt động của đại biểu HĐND mà giao cho HĐND tỉnh quyết định, dẫn đến một số tỉnh khó khăn trong triển khai, thực hiện do đó kiến nghị UBTVQH quy định cụ thể phương tiện, định mức trang bị phương tiện đảm bảo phục vụ hoạt động của đại biểu HĐND.
Kiến nghị ban hành chính sách đặc thù cho đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách để động viên, khích lệ đại biểu chuyên trách trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; ban hành chế độ thi đua – khen thưởng đối với đại biểu dân cử. Quan tâm, chăm lo xây dựng và nâng chất đội ngũ tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của HĐND.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó cũng là yêu cầu thực tế cần thiết của cuộc sống, nhằm ngày càng hoàn thiện thiết chế dân chủ, bảo đảm cho Nhân dân thực hiện được quyền lự- của mình. Nâng cao năng lực hoạt động của HĐND cũng chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội cũng như bảo đảm thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Quan tâm tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy Văn phòng giúp việc HĐND. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ, công chức Văn phòng; đảm bảo các điều kiện phương tiện, kinh phí để thực hiện tốt chức năng tham mưu, phục vụ, giúp việc cho hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND và các cơ quan của HĐND. Ngoài việc được tập huấn chung vào đầu các nhiệm kỳ như hiện nay, cần xây dựng và tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên sâu cần thiết theo từng lĩnh vực để đại biểu HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt hơn chức năng giám sát của mình.
– Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong PCTN
Thường trực HĐND cấp tỉnh có trách nhiệm tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa để phục vụ hoạt động của HĐND; bảo đảm sự liên thông về dữ liệu các hoạt động giữa HĐND các cấp và các cơ quan có liên quan; tiếp tục chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính chuyên nghiệp trong công tác tham mưu, phục vụ các kỳ họp HĐND, của Thường trực HĐND và các Ban HĐND cấp tỉnh. Thực tế cũng đặt ra yêu cầu đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền qua ứng dụng công nghệ thông tin về hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND theo hướng tuyên truyền kịp thời, toàn diện cả chiều rộng và chiều sâu để cử tri và Nhân dân theo dõi, giám sát./.