Ngày càng có sự đồng thuận trên phạm vi toàn cầu rằng việc quản lý xung đột lợi ích là rất quan trọng để kiềm chế tham nhũng trong khu vực nhà nước. xung đột lợi ích đã được xác định là một chỉ báo, một tiền thân và là kết quả của tham nhũng nếu không được kiểm soát. Xung đột lợi ích rõ ràng và tiềm ẩn có thể gây tổn hại như xung đột lợi ích thực tế. Khi các quốc gia và tổ chức quốc tế chuyển trọng tâm từ phát hiện và xử lý tham nhũng sang phòng ngừa tham nhũng, kiểm soát xung đột lợi ích đã trở thành vấn đề hàng đầu trong cuộc chiến chống tham nhũng và được công nhận là một khái niệm chống tham nhũng cơ bản.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế – xã hội, sự thay đổi trong mô hình quản trị nhà nước, sự thu hẹp của khu vực nhà nước mà mở rộng của khu vực ngoài nhà nước, sự tăng cường mối liên hệ giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, sự liên kết của chính các thực thể trong khu vực ngoài nhà nước với nhau, tham nhũng không chỉ xuất hiện trong khu vực nhà nước mà còn nảy sinh và có nguy cơ diễn biến ngày càng nghiêm trọng, phức tạp hơn trong khu vực ngoài nhà nước. Nguy cơ tham nhũng xuất hiện chủ yếu ở các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có hoạt động huy động tiền, vốn góp của đông đảo người dân như công ty đại chúng, tổ chức tín dụng hay tổ chức xã hội hoạt động từ thiện. Các chủ thể này có đặc điểm chung là đều tiếp nhận, quản lý lượng tiền, tài sản lớn của cổ đông, của người dân thông qua nghiệp vụ tín dụng bán lẻ hay từ hoạt động quyên góp từ thiện. Đặc điểm này thể hiện tính chất “quyền lực công” và khả năng lạm dụng “quyền lực công” của những người có chức vụ, quyền hạn làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước đó. Tương tự như tham nhũng trong khu vực nhà nước, tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước cũng có tiền thân là các xung đột lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn chưa được nhận diện và kiểm soát phù hợp.
Hậu quả của tham nhũng, tiêu cực trong doanh nghiệp, tổ chức, khu vực ngoài nhà nước hết sức nghiêm trọng, có thể nhìn thấy rõ và tác động trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể có liên quan. Đó là những thiệt hại trực tiếp đến tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp/tổ chức; thiệt hại trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông (trong công ty đại chúng), của khách hàng gửi tiền (trong tổ chức tín dụng), tổn hại nghiêm trọng đến niềm tin của đông đảo người dân (đối với tổ chức xã hội hoạt động từ thiện); thiệt hại đến các các chủ thể có liên quan như nhân viên của doanh nghiệp/tổ chức, khách hàng, đối tác của doanh nghiệp/tổ chức. Ở mức độ nghiêm trọng hơn, tham nhũng, tiêu cực trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước còn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh, ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế – xã hội. Những hậu quả này đặt ra nhu cầu cấp thiết cần phải thiết lập cơ chế kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước một cách phù hợp.
Điều 80 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng, trong đó, có biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Quy định được áp dụng đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và các tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của Nhân dân để hoạt động từ thiện.
Ngoài quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, các biện pháp nhằm kiểm soát xung đột lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước còn được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Chứng khoán năm 2019, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, Nghị định số 71/2017/NĐ-CP ngày 06/6/2017 của Chính phủ hướng dẫn về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng, Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện, Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thời gian qua, việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng nói chung, kiểm soát xung đột lợi ích nói riêng trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước đã được triển khai rộng rãi nhưng hiệu quả còn chưa cao, tình hình tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước ghi nhận một số vụ việc có tính chất rất phức tạp, quy mô lớn liên quan đến công ty đại chúng và tổ chức tín dụng. Trong đó, có vụ việc được đánh giá là vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, mức độ thiệt hại lớn, gây ra những hệ lụy không nhỏ cho nền kinh tế và những bất ổn trong xã hội. Có thể kể ra một số vụ việc như: Vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) xảy ra vào năm 2018[1], Vụ án Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam – PVC và Công ty Cổ phần Bất động sản Điện lực dầu khí Việt Nam – PVP Land cũng xảy ra vào năm 2018[2]…, gần đây nhất là vụ án tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, trong đó, bà Trương Mỹ Lan – Chủ tịch tập đoàn Vạn Thịnh Phát, dù không trực tiếp giữ chức vụ trong ban lãnh đạo, nhưng với việc sở hữu hơn 90% cổ phần, bà Lan nắm quyền điều hành, chi phối, chỉ đạo toàn bộ hoạt động của ngân hàng SCB, bao gồm việc tuyển dụng cả nhân sự cấp cao… Qua đó, bà Lan dùng Ngân hàng SCB như một công cụ tài chính để huy động vốn cho hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát với hơn 1.000 công ty con[3]. Đây là một vụ việc điển hình cho thấy xung đột lợi ích khi không được kiểm soát phù hợp đã dẫn đến những hệ lụy khủng khiếp như thế nào.
Nghị định số 93/2019/NĐ-CP quy định việc kiện toàn tổ chức, bộ máy của các quỹ từ thiện, tuy nhiên, có một số quỹ chưa tổ chức thực hiện, chưa ban hành đầy đủ các quy chế, quy định trong nội bộ quỹ theo quy định điều lệ quỹ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và quy định của pháp luật. Đặc biệt, nhiều quỹ hoạt động chưa đảm bảo sự công khai, minh bạch về tài chính trong quá trình vận động, tiếp nhận tài trợ, cá biệt còn lợi dụng tổ chức, hoạt động của quỹ nhằm mục đích có tính chất tư lợi mà thực chất là tham nhũng. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ việc các quỹ đã không chú trọng việc thực hiện các biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích theo quy định. Các quy định hầu hết là giống nhau, “copy” như nhau. Các quy định có tính chất phòng ngừa xung đột lợi ích chỉ mang tính nguyên tắc, chung chung, không rõ ràng để tổ chức thực hiện.
Kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước phải bảo đảm các nguyên tắc pháp luật và thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Theo đó, kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước cần được tiếp cận từ một số quan điểm như sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ mục đích của kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, kiểm soát không phải là cấm mà là bảo đảm một cơ chế kiểm soát chặt chẽ để xung đột lợi ích không trở thành tham nhũng, tiêu cực. Công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội hoạt động từ thiện đã được định hình rõ và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc và quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động. Tổ chức và hoạt động của công ty đại chúng và tổ chức tín dụng còn tuân theo các thông lệ quốc tế. Kiểm soát xung đột lợi ích là một trong những nội dung của quản trị doanh nghiệp, tổ chức vì vậy trước hết nó phải phù hợp với các nguyên tắc và quy định về quản trị doanh nghiệp, tổ chức.
Thứ hai, kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước không chỉ là trách nhiệm của bản thân các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước mà còn là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và toàn xã hội. Giờ đây, tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước đã không còn là câu chuyện riêng của các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước mà đã trở thành mối quan tâm chung của các chủ thể trong cả khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. Thực tế nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực gần đây đã cho thấy tham nhũng tiêu cực trong khu vực ngoài nhà nước, với sự tiếp sức của những người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước đã trở thành một trong những trụ cột nội dung của công tác phòng chống tham nhũng nói chung, được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng và Bộ luật Hình sự. Tương tự như tham nhũng trong khu vực nhà nước, tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước có xuất phát điểm là các xung đột lợi ích không được kiểm soát một cách phù hợp. Để phòng, chống tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước một cách có hiệu quả, cần phải bắt đầu từ việc xây dựng cơ chế kiểm soát xung đột lợi ích. Điều này không chỉ là trách nhiệm của bản thân các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước mà còn là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và toàn xã hội. Trách nhiệm đó được thể hiện ở việc cơ quan nhà nước phải xây dựng khung pháp lý hoàn thiện và trên cơ sở đó, các văn bản, quy định của doanh nghiệp, công ty cụ thể hóa, bổ sung các nội dung phù hợp với đặc thù về tổ chức và hoạt động của mình.
Thứ ba, để tăng cường kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, trước hết cần tập trung hoàn thiện cơ chế kiểm soát nội tại của doanh nghiệp, tổ chức, đồng thời phải có sự kiểm soát từ bên ngoài của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chủ thể khác có liên quan. Mỗi doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước đều là một pháp nhân độc lập theo quy định của pháp luật, phải tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Kiểm soát xung đột lợi ích nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trước hết phải bắt đầu từ động cơ nội tại của chính các chủ thể này. Đồng thời, phải có cả sự kiểm soát từ phía các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác có liên quan bởi lẽ các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước không tồn tại độc lập mà luôn có mối liên hệ với các chủ thể khác. Các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước còn huy động, tiền, vốn góp của đông đảo cổ đông, cá nhân, tổ chức. Nếu xảy ra tham nhũng, tiêu cực thì hệ lụy không chỉ là bản thân các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước phải gánh chịu mà còn kéo theo rất nhiều chủ thể khác phải chịu thiệt hại, còn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, kiểm soát xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa hai cơ chế kiểm soát là kiểm soát từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài.
Trên cơ sở quan điểm tiếp cận như trên, có thể nêu ra một số giải pháp nhằm kiểm soát xung đột lợi ích nhằm phòng ngừa tham nhũng trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong thời gian tới như sau:
Đối với công ty đại chúng, cần tập trung thực hiện các giải pháp như sau:
Một là, để nhận diện chính xác về tình huống xung đột lợi ích và giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích trong công ty, pháp luật doanh nghiệp cần đưa ra khái niệm về giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích. Khi hoàn thiện quy định pháp luật về nhận diện giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích trong công ty, cần làm rõ căn cứ pháp lý để xác định giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích: Về người đại diện tham gia giao dịch; người có liên quan của công ty; giá trị tài sản tham gia giao dịch; nội dung bất thường của giao dịch. Trên cơ sở đó, pháp luật điều chỉnh chung (luật doanh nghiệp; luật chứng khoán; luật phá sản;…và các văn bản pháp luật liên quan) và văn bản nội bộ của công ty cần nhận diện đầy đủ các giao dịch cần phải được kiểm soát bao gồm: Giao dịch giữa công ty đại chúng với người có liên quan; giao dịch có giá trị lớn; giao dịch nội gián; giao dịch bất thường: Giao dịch trong các trường hợp đặc biệt (công ty lâm vào tình trạng phá sản); giao dịch đơn phương của công ty (tặng cho tài sản, giãn nợ, xóa nợ…).
Hai là, cần công khai, minh bạch thông tin chứa đựng yếu tố xung đột lợi ích trong giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích. Hiện nay, pháp luật chỉ chú trọng việc công khai nội dung của giao dịch (những thông tin ở bước tiền hợp đồng) mà chưa có sự điều chỉnh một cách toàn diện trong cả quá trình thực hiện và giám sát giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích. Bởi lẽ, nếu chỉ nhìn vào bản dự thảo hợp đồng thì Đại hội đồng cổ đông sẽ khó đánh giá chính xác được những lợi ích liên quan có thể bị trục lợi. Do đó, cần công khai hóa những đánh giá, dự báo của Hội đồng quản trị về tiềm năng phát triển, và nhất là các rủi ro có thể xảy đến với công ty và mức độ của những rủi ro đó trong các giao dịch của công ty để các cổ đông nắm được tình hình trước khi bỏ phiếu chấp thuận hay không chấp thuận giao dịch.
Ba là, kiểm soát các giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích cần đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ của người quản lý công ty, trong đó các yêu cầu sau cần được quan tâm: (1) nhận diện người quản lý công ty; (2) cơ chế xác lập người quản lý; (3) điều kiện, tiêu chuẩn để được bổ nhiệm người quản lý công ty; (4) các nghĩa vụ của người quản lý công ty; (5) chế tài xử lý vi phạm. Bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình của người quản lý công ty trong Luật Doanh nghiệp.
Bốn là, nâng cao hiệu quả kiểm soát giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích trong công ty cần nhận thức và sử dụng có hiệu quả đối với Điều lệ và các văn bản nội bộ khác của công ty. Các văn bản nội bộ công ty bên cạnh việc phù hợp với các quy định pháp luật còn cần phải làm được các vấn đề sau: (1) Cần cụ thể hơn các quy định pháp luật, đặc biệt, những quy định mà pháp luật điều chỉnh chung thì Điều lệ công ty cần cụ thể hóa, chi tiết hóa những quy định đó để áp dụng trong công ty mình. (2) Điều lệ và các văn bản nội bộ phải phù hợp với đặc điểm, đặc thù của công ty, tránh tình trạng Điều lệ “chép” dẫn đến chất lượng, hiệu quả, tính khả thi của các quy định thấp. (3) Điều lệ và các văn bản nội bộ công ty nên bổ sung quy định cụ thể, khắc phục những khiếm khuyết của luật, như: đưa ra định nghĩa về giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích; nhận diện đầy đủ, chính xác các giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích, đối tượng có khả năng tư lợi; xây dựng cơ chế kiểm soát giao dịch tiềm ẩn xung đột lợi ích từ lúc tiền giao dịch cho đến khi hoàn tất giao dịch.
Đối với tổ chức tín dụng, cần tập trung thực hiện các giải pháp như sau:
Một là, nâng cao vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan quản lý nhà nước trong nhiều lĩnh vực (tài chính, ngân hàng, doanh nghiệp…) cần phối hợp để đưa ra các biện pháp ngăn ngừa tình trạng sở hữu chéo, việc thành lập công ty ma… đặc biệt là việc hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp; quản lý, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng (quản lý, giám sát hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp).
Một số biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo như: (i) Tăng cường giám sát danh sách cổ đông đặc biệt: Ngân hàng nhà nước cần quản lý trường hợp những cổ đông có vốn góp lớn ở nhiều doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác nhau, tiến hành xác minh nguồn gốc tài chính của họ thông qua hồ sơ chứng minh năng lực tài chính và quan hệ tín dụng tại các tổ chức tín dụng. Nếu phát hiện những biểu hiện và hành vi thiếu minh bạch của những cổ đông là những doanh nghiệp hay cá nhân, Ngân hàng nhà nước cần kịp thời ngăn chặn và có những biện pháp xử phạt thích đáng. Trên thực tế, có doanh nghiệp đã lấy tên người làm công, nhân viên đơn vị mình để vay vốn của các Ngân hàng thương mại và được chấp nhận vay vốn. Ngân hàng nhà nước cần rà soát và xử lý nghiêm những hành vi cố tình sai phạm quy chế cho vay, tạo ra rủi ro tiềm tàng cho toàn hệ thống; (ii) Tăng cường giám sát các tổ chức tín dụng tham gia giao dịch, chuyển nhượng trên sàn chứng khoán về số lượng và đối tượng trong việc mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu của các tổ chức tín dụng thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng nhà nước và Ủy ban Chứng khoán nhằm hạn chế rủi ro và kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh.; (iii) Tăng cường kiểm toán độc lập nhằm kiểm soát những hành vi đầu tư thiếu minh bạch, kiểm soát chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư nhằm kịp thời ngăn ngừa, hạn chế sở hữu chéo, tránh “lợi ích nhóm”, xử lý nguyên nhân dẫn đến sở hữu chéo, mang lại sự lành mạnh cho hệ thống ngân hàng.
Hai là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý, giám sát các tổ chức tín dụng trong việc thực hiện các biện pháp phòng, ngừa tham nhũng đối với khu vực ngoài nhà nước theo quy định của pháp luật. Với mục đích: Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện điểm bất hợp lý, tồn tại, hạn chế, vi phạm trong việc tổ chức thực hiện để kịp thời điều chỉnh hoặc kiến nghị việc điều chỉnh cơ chế, chính sách về xung đột lợi ích và biện pháp xung đột lợi ích đảm bảo phù hợp với đặc thù hoạt động của từng tổ chức tín dụng.
Ba là, các tổ chức tín dụng cần nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ từ yếu tố nhân sự, cơ chế chính sách đến nền tảng về công nghệ thông tin. Đảm bảo các nguyên tắc, yêu cầu của kiểm soát nội bộ trong từng quy trình nghiệp vụ cụ thể; thực hiện tuân thủ các quy trình nội bộ đã xây dựng và ban hành. Đối với các vụ việc vi phạm quy định nội bộ xảy ra, tổ chức tín dụng cần xem xét thêm ở góc độ có hay không hành vi xung đột lợi ích, nghiên cứu, tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến phát sinh xung đột lợi ích để từ đó có biện pháp kiểm soát, xử lý phù hợp.
Một số giải pháp cụ thể cần thực hiện nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ trong tổ chức tín dụng như sau:
(i) Hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Các tổ chức tín dụng nên ban hành các quy định về an toàn hoạt động cho hệ thống dựa trên các quy định của Ngân hàng Nhà nước, các chuẩn mực, nguyên tắc kế toán, kiểm toán được chấp nhận rộng rãi và áp dụng các nguyên tắc về giám sát tổ chức tín dụng; Phát triển hệ thống quản lý của tổ chức tín dụng phải phù hợp với các chuẩn mực, thông tế quốc tế và thực tiễn của các đơn vị hiện nay. Ban giám đốc, các nhà quản lý tổ chức tín dụng cần tích cực tham gia vào việc thiết lập và duy trì kiểm soát nội bộ; Hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ; Đảm bảo hệ thống kiểm soát nội bộ được hoạt động chuyên nghiệp và độc lập.
(ii) Tăng cường hoàn thiện hệ thống thông tin trong tổ chức tín dụng. Để làm được điều này cần đầu tư hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin, phát triển hệ thống quản lý nội bộ nâng cấp hệ thống ngân hàng lõi phù hợp với quy mô và mức độ hoạt động của tổ chức tín dụng, cũng như yêu cầu quản trị điều hành hệ thống.
(iii) Chú trọng và hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng thường xuyên cập nhật rủi ro và phân tích đánh giá rủi ro. Dựa trên mục tiêu đã được thiết lập, các nhà quản lý nhận dạng và phân tích rủi ro để có thể đưa ra những biện pháp quản trị rủi ro phù hợp; chủ động đưa ra các hành động kịp thời để ứng phó với các rủi ro. Để làm được điều này đòi hỏi Ban giám đốc, các cán bộ quản lý cần phải tăng cường sát sao trong việc theo dõi và cập nhật các rủi ro để đưa ra các quyết định kịp thời.
(iv) Tăng cường giám sát hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng phải thực hiện việc giám sát thường xuyên hệ thống kiểm soát nội bộ. Trước hết, tăng cường sự giám sát của hội đồng quản trị để đảm bảo tính minh bạch, theo đó cần tách bạch giữa chức năng giám sát của hội đồng quản trị với chức năng điều hành kinh doanh của Ban điều hành. Bên cạnh đó, tăng cường giám sát trên cơ sở định hướng rủi ro; kiểm toán các doanh nghiệp có dư nợ lớn; các nghiệp vụ có tính rủi ro cao.
(v) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức tín dụng. Con người là yếu tố quyết định, yếu tố then chốt trong mọi lĩnh vực, vì thế công việc đầu tiên phải làm để hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ thì các tổ chức tín dụng cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Một số biện pháp cụ thể có thể thực hiện gồm: Đổi mới công tác tuyển dụng nhân sự, thực hiện quy trình tuyển chọn nhân viên chặt chẽ, bố trí phân công nhiệm vụ phù hợp, đúng với khả năng và năng lực của từng người; Định kỳ và thường xuyên tiến hành kiểm tra năng lực và chất lượng công việc của các cán bộ, nhân viên ngân hàng; Tổ chức các cuộc thi sát hạch để đánh giá và tạo động lực khích lệ cán bộ, nhân viên không ngừng trau dồi và phát huy năng lực; Tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn để bổ sung kiến thức, kỹ năng kịp thời cho cán bộ, nhân viên ngân hàng.
Bốn là, tổ chức tín dụng phải coi trọng việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật, quy định nội bộ nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng để từ đó tự bản thân mỗi nhân viên sẽ trang bị cho mình những kiến thức về phòng, chống tham nhũng nói chung, về xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích nói riêng. Khi nhận thức ngày càng được nâng cao, thì khả năng nhận diện, phòng ngừa các xung đột lợi ích sẽ trở nên hiệu quả hơn.
Đối với tổ chức xã hội hoạt động từ thiện, cần tập trung thực hiện các giải pháp như sau:
Một là, bổ sung các quy định về nhận diện và kiểm soát xung đột lợi ích trong tổ chức xã hội hoạt động từ thiện theo đúng tinh thần của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Quy định cụ thể trách nhiệm chủ động phòng ngừa, phát hiện các tình huống xung đột lợi ích và trách nhiệm báo cáo, xử lý báo cáo về tình huống xung đột lợi ích, xây dựng các tiêu chuẩn lựa chọn thành viên của các hội đồng quản lý quỹ, thực hiện công khai, minh bạch thông tin về các hoạt động tài trợ, xây dựng quy chế kiểm soát nội bộ trong tổ chức xã hội hoạt động từ thiện.
Hai là, bổ sung một số quy định cụ thể về chế độ kế toán, kiểm toán độc lập định kỳ hoặc khi hội đồng quản lý quỹ hết nhiệm kỳ. Đối với tổ chức từ thiện hoạt động một cách chuyên nghiệp do Nhà nước thành lập, cần hướng dẫn một cách đầy đủ hệ thống kế toán từ chứng từ, tài khoản, quy trình ghi sổ và lập các báo cáo tài chính về tình hình hoạt động của quỹ và yêu cầu giải trình thông tin đầy đủ trong thuyết minh báo cáo tài chính. Các quỹ này cũng cần được thực hiện kiểm tra, kiểm toán của các cơ quan chức năng của Nhà nước, hoặc các công ty dịch vụ kiểm toán độc lập đảm bảo quỹ hoạt động đúng điều lệ hoạt động của quỹ. Đối với các quỹ từ thiện hoạt động mang tính chất vụ việc thì các tổ chức huy động và nhận các nguồn lực tài trợ phải ghi nhận trong sổ kế toán như là một khoản nợ phải trả và khi thực hiện hoạt động thiện nguyện thì ghi nhận giảm nợ phải trả. Trong báo cáo tài chính của đơn vị, tổ chức vào cuối mỗi năm tài chính cần được trình bày và cung cấp thông tin về tình hình nhận các nguồn lực tài trợ và chi cho hoạt động từ thiện và số tiền tồn quỹ như thế nào.
Ba là, Ủy ban nhân dân các tỉnh cần chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức xã hội hoạt động từ thiện trên địa bàn địa phương mình. Khi tiến hành kiểm tra, cần tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác kế toán; tổ chức bộ máy kế toán, người làm kế toán và việc chấp hành các quy định khác của pháp luật về kế toán theo quy định hiện hành đối với đơn vị kế toán. Đối với tổ chức, cơ quan, đơn vị thực hiện kiêm nhiệm, tiến hành kiểm tra, giám sát việc mở sổ kế toán chi tiết theo dõi riêng cho hoạt động tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện để thực hiện các hoạt động xã hội, từ thiện trên cơ sở chế độ kế toán mà đơn vị đang áp dụng, việc lập báo cáo, công khai số liệu theo quy định hiện hành./.
ThS. Lê Thị Thúy
Trưởng phòng, Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
[1] Nguồn: Tạp chí Thanh tra, link: https://thanhtravietnam.vn/thuc-tien-va-chinh-sach/goc-nhin-thanh-tra-ve-hieu-qua-hoat-dong-cua-uy-ban-quan-ly-von/van-de-thau-tom-quyen-quan-tri-trong-cong-ty-co-phan-co-von-nha-nuoc-202783.html
[2] Nguồn: Tạp chí Thanh tra, link: https://thanhtravietnam.vn/thuc-tien-va-chinh-sach/goc-nhin-thanh-tra-ve-hieu-qua-hoat-dong-cua-uy-ban-quan-ly-von/van-de-thau-tom-quyen-quan-tri-trong-cong-ty-co-phan-co-von-nha-nuoc-202783.html
[3] Nguồn: Tạp chí điện tử Pháp lý, link: https://phaply.net.vn/nghien-cuu-thu-doan-cua-toi-pham-tham-nhung-trong-khu-vuc-tu-de-xuat-giai-phap-co-che-huu-hieu-dau-tranh-toi-pham-tham-nhung-thoi-gian-toi-a257950.html