Thanh tra là khâu thiết yếu của quản lý nhà nước, nếu nhìn nhận hoạt động quản lý bao gồm 3 giai đoạn: Ban hành quyết định quản lý – tổ chức, thực hiện – thanh tra, kiểm tra việc thực hiện. Đây chính là tiền đề để khẳng định: “Kết luận thanh tra góp phần nâng cao hiệu lực thanh tra, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước”. Bởi vì, thông qua kết quả các cuộc thanh tra, được thể hiện cụ thể trong các Kết luận thanh tra, thủ trưởng cơ quan quản lý có cơ sở đánh giá được việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các đối tượng quản lý. Từ đó các cơ quan quản lý phát hiện những sơ hở, thiếu sót, để có các đề xuất, kiến nghị nhất là về việc sửa đổi, bổ sung các quyết định quản lý, các biện pháp khắc phục sơ hở, yếu kém hay sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách pháp luật.
Mặt khác, Kết luận thanh tra là văn bản có tính pháp lý, do người có thẩm quyền ban hành. Kết luận thanh tra thể hiện tính quyền lực nhà nước, được ban hành theo quy trình nhất định và được thể hiện theo hình thức quy định. Việc ban hành văn bản Kết luận thanh tra là trách nhiệm và quyền hạn của các chủ thể được trao quyền tức là những người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra.
Như vậy có thể khẳng định, Kết luận thanh tra có vị trí, vai trò nhất định trong việc kiểm chứng, đánh giá các chủ trương, chính sách, pháp luật đã được ban hành.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thanh tra năm 2010 quy định thì mục đích của hoạt động thanh tra là “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Như vậy, thông qua hoạt động thanh tra, người quản lý không chỉ đánh giá được hiệu quả, tính đúng đắn của những chủ trương, quyết định đã ban hành mà còn phát hiện được những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn. Nhất là các quan hệ mới hình thành do sự thay đổi, phát triển của xã hội, từ đó kịp thời điều tiết trong các chủ trương, quyết định quản lý của mình. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động thanh tra nói chung hay từ những Kết luận thanh tra nói riêng còn là cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý căn cứ vào đó xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển.
Để mục đích hoạt động thanh tra được thực hiện có hiệu quả thì Kết luận thanh tra phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc. Tại Điều 40 của Luật Thanh tra năm 2010 quy định về việc xử lý và chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra: “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết luận thanh tra hoặc nhận được kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra…”. Nhưng thực tế, việc thực hiện Kết luận thanh tra thời gian qua đối với các cá nhân, đơn vị, tổ chức có liên quan thi hành Kết luận thanh tra một cách dây dưa, chưa thực hiện một cách nghiêm túc, dứt điểm. Chính vì việc thi hành Kết luận thanh tra không được chấp hành nghiêm nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên cụ thể là:
(1) Do giá trị pháp lý của Kết luận thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra chưa quy định đầy đủ, đồng nhất;
(2) Do về hình thức của Kết luận thanh tra cho thấy, điểm hạn chế thường gặp là sự thiếu thống nhất về hình thức của văn bản, thậm chí ngay trong một cơ quan, với những cuộc thanh tra có nội dung tương tự như nhau, song mỗi cuộc thanh tra thì hình thức văn bản Kết luận thanh tra cũng rất khác nhau, như bố cục, nội dung, kết luận, kiến nghị xử lý. Điều này làm cho việc theo dõi, tổng hợp, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Kết luận gặp trở ngại, gây khó khăn cho quá trình thi hành Kết luận;
(3) Một số văn bản Kết luận thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu về nội dung; quá trình xây dựng nhiều kết luận mới chỉ căn cứ trên cơ sở quy định của Luật thanh tra, chưa căn cứ vào quy định của Luật phòng, chống tham nhũng. Theo đó thì có những Kết luận thanh tra về vụ án tham nhũng chưa nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi tham nhũng theo các mức độ: Yếu kém về năng lực quản lý; thiếu trách nhiệm trong quản lý; bao che cho người có hành vi tham nhũng. Một số trường hợp khác thì nội dung kết luận thanh tra còn chung chung, không rõ ràng, nhất là việc xác định trách nhiệm của các cá nhân có liên quan, các kiến nghị xử lý về con người. Do vậy, việc quy kết không có lập luận, thiếu cơ sở, bằng chứng thuyết phục, thậm chí có trường hợp không có kết luận cụ thể.
(4) Do kẽ hở của luật pháp: hiện nay chưa có biện pháp xử lý các đối tượng thanh tra không chấp hành nghiêm các kết luận thanh tra; chưa có quy định việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc thiếu đôn đốc thực hiện các kết luận thanh tra. Mặc dù, tại Điều 41 Luật Thanh tra năm 2010 quy định về xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, quyết định xử lý về thanh tra: “Trong quá trình thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra mà không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, chính xác, kịp thời theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra… hoặc tiêu hủy tài liệu, vật chứng liên quan đến nội dung thanh tra thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; Đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm thi hành kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không kịp thời thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Việc quy định tại Điều 41 như vậy nhưng thực tế chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, hình thức vi phạm như nào thì bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật và vi phạm như nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chính vì chưa có hướng dẫn chi tiết cụ thể nên việc thực hiện áp dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong việc quy trách nhiệm xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Để Kết luận thanh tra được thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả thì bước đầu cần có những biện pháp xử lý nghiêm khắc những trường hợp chậm thực hiện hoặc không chấp hành thực hiện Kết luận thanh tra là việc làm cần thiết. Để có những biện pháp như vậy, đòi hỏi các quy định pháp luật cần có sự bổ sung, hướng dẫn chi tiết. Mặc dù Luật thanh tra cũng có quy định về việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải chấp hành nghiêm các kết luận, kiến nghị thanh tra. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần phải ban hành riêng một Nghị định quy định những nội dung về việc thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra. Trong Nghị định này nêu rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ của người có thẩm quyền trong việc xem xét, xử lý các kiến nghị được nêu trong Kết luận thanh tra; trách nhiệm các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra. Nghị định cũng cần quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn của những người thực hiện nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, các nội dung cụ thể của công việc này; các hình thức xử lý đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện nghiêm túc các kết luận, kiến nghị thanh tra.
Vũ Thị Ngọc Huế
Viện Khoa học Thanh tra