Đại hội XI (tháng 1/2011) đã làm sâu sắc thêm nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định “tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường”[2]. Như vậy, từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật – phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước.
Với những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đến Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013), khẳng định:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[3].
Như vậy, về cơ bản Hiến pháp sửa đổi vẫn tiếp tục khẳng định nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân công thực hiện một cách rạch ròi thông qua cơ chế phân công, phân nhiệm, thì còn cần phải có một cơ chế để kiểm soát các nhánh quyền lực này; cụm từ “kiểm soát” được đưa vào như là một cơ chế bảo đảm cho việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước được tiến hành một cách chính xác và đạt hiệu quả; hạn chế đến mức tối đa việc lạm quyền và lộng quyền trong thực thi quyền lực của các cơ quan nhà nước.
Mục đích của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho quyền lực nhà nước không bị lạm dụng, ngăn chặn các hiện tượng, xu hướng quan liêu, độc tài, chuyên quyền, độc đoán trong bộ máy nhà nước, không bị sử dụng trái với ý chí của nhân dân. Khi quyền lực càng tập trung, thì khả năng kiểm soát nó càng khó. Nếu không có sự kiểm soát tốt, nó sẽ trở thành rào cản của tự do và dân chủ. Xã hội càng phát triển, quyền lực nhà nước càng lớn thì yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước càng phải tăng lên.
Cùng với hình thức kiểm soát từ bên ngoài bộ máy nhà nước là hoạt động kiểm soát từ phía Nhân dân thì hoạt động kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước cũng là vấn đề được đặt ra nghiên cứu nhằm xây dựng được một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả theo Hiến pháp năm 2013.
Trước hết, để kiểm soát được quyền lực nhà nước một cách hiệu quả cần phải thông qua việc phân công, phân nhiệm cụ thể hơn, rạch ròi hơn: Đó là, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyền giám sát tối cao của cơ quan quyền lực nhà nước đại diện cho nhân dân; Chính phủ là cơ quan thực hành quyền hành pháp; Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp đã thể hiện sự phân công rạch ròi và dứt khoát hơn trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước, từ đó tạo điều kiện để có thể có những cơ chế hữu hiệu nhằm mục đích kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả nhất.
Thứ hai; kiểm soát thông qua cơ chế giám sát lẫn nhau trong tổ chức và hoạt động: đó là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội; Chủ tịch nước. Đối với Chính phủ, tại Điều 96 Hiến pháp sửa đổi, khi quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, khoản 5 có nêu: “…tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước…”. Như vậy, Chính phủ thực hiện quyền kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc tổ chức công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, bao gồm cả các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Vậy thanh tra cần được đặt ở đâu? Mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan nhà nước khác và tổng thể cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát của Nhà nước như thế nào? để thanh tra thực sự trở thành một công cụ sắc bén trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
1. Hiện nay, trong giới luật học, khoa học quản lý, các nhà quản lý và những người tham gia nghiên cứu về tổ chức hoạt động thanh tra nhà nước ở nước ta đang đưa ra những quan điểm khác nhau về vị trí của thanh tra:
Thứ nhất, thanh tra là một bộ phận của hoạt động hành pháp, phải đặt trong hệ thống cơ quan hành pháp. Các cơ quan hành chính chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh điều hành đất nước khi nắm bắt được nhiệm vụ và thực hiện những nhiệm vụ đó thông qua hoạt động thanh tra của các cơ quan chức năng của mình. Hoạt động thanh tra có đặc điểm là mang tính quyền lực nhà nước và tính tập trung cao về thứ bậc hành chính. Do đó chỉ có đặt trong cơ quan hành pháp, tác dụng của thanh tra mới được phát huy và phù hợp với tính chất nhanh chóng, kịp thời của hoạt động quản lý.
Thứ hai, còn có quan điểm cho rằng cần sớm sửa đổi Hiến pháp, chuyển hệ thống thanh tra nhà nước hiện nay sang loại hình thanh tra của Quốc hội hoặc giám sát hành chính độc lập với Chính phủ. Đây là quan điểm của một số nước tổ chức mô hình theo chế độ đại nghị triệt để, nhằm đề cao vai trò của Nghị viện. Chẳng hạn như ở Anh, Nhật Bản, Thụy Sĩ… tổ chức thanh tra trực thuộc Quốc hội (ủy ban thanh tra hoặc giám sát của Quốc hội) nhưng thực tế là hoạt động giám sát các hoạt động hành chính đối với cơ quan hành pháp và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra là xem xét tính hợp pháp và hợp lý của các hành vi hành chính của hệ thống cơ quan hành pháp từ chính phủ đến các địa phương.
Theo chúng tôi, dù đặt vị trí của hoạt động thanh tra, kiểm tra ở đâu nhưng xét về bản chất, trong quản lý nhà nước cần phải có thanh tra, kiểm tra các hoạt động hành chính như một tác nhân tất yếu để hạn chế, khắc phục các khiếm khuyết của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nói riêng.
Trước hết, về mặt lý luận, Lênin cho rằng: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý với thanh tra là một chứ không phải là hai[4]”. Thanh tra là một chức năng, một bộ phận của quản lý, thanh tra không giống như các hoạt động chuyên môn khác mà là hoạt động nhằm bảo đảm thực hiện chính sách, pháp luật, giữ vững kỷ cương trật tự trong quản lý. Mục đích của thanh tra là hướng vào xem xét các hành vi hợp pháp và hợp lý của chủ thể quản lý (trong đó có cả các quyết định quản lý nhà nước).
Cùng với cơ chế kiểm tra, giám sát khác, công tác thanh tra giữ vị trí quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, nhất là giữ vững được kỷ cương của nền hành chính. Hoạt động thanh tra của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là một loại tự kiểm soát quyền lực trong nội bộ hệ thống, do các cơ quan chuyên trách – cơ quan thanh tra thực hiện đối với các bộ phận của hệ thống hành chính từ trên xuống dưới. Sự thiết lập hệ thống kiểm tra, thanh tra này bên cạnh các cơ chế kiểm tra, giám sát khác đối với hoạt động hành chính nhà nước là hết sức cần thiết vì so với các hệ thống cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước khác thì nguy cơ lạm quyền từ phía các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là rất lớn.
Trong trường hợp đặt thanh tra thuộc Quốc hội, phương án này sẽ phát huy được vai trò kiểm soát quyền lực từ phía cơ quan lập pháp đối với các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, mô hình này sẽ chỉ phù hợp với thiết chế bộ máy nhà nước đã phát triển theo hướng phân chia ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách cứng rắn.
Ngay cả trong trường hợp thực hiện theo phương án này và theo lý luận, cho dù Quốc hội có thành lập tổ chức thanh tra thì theo bản chất của quản lý, cơ quan thực hiện chức năng hành pháp vẫn phải có cơ quan kiểm tra, thanh tra riêng của mình để thực hiện việc kiểm tra chu trình quản lý. Kinh nghiệm của một số nước khác khi thanh tra nằm trong cơ quan lập pháp, lập tức vẫn xuất hiện một hệ thống thanh tra khác của hành pháp để thay thế cơ quan thanh tra đã tách ra khỏi cơ quan hành pháp. Quan niệm của các nước này là hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành pháp trước hết thể hiện ở hành vi tự giám sát khi đưa ra một quyết định quản lý.
Một vấn đề nữa là nếu đặt thanh tra thuộc khối hành pháp thì tính độc lập giữa thanh tra với cơ quan quản lý cần được đặt ra đến đâu?
Nếu đã thống nhất đặt vị trí thanh tra thuộc khối hành pháp, vấn đề tiếp theo được đặt ra là thiết kế mô hình tổ chức thanh tra trong mối quan hệ với cơ quan quản lý thế nào để tránh việc thanh tra phụ thuộc quá nhiều vào Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp cả về tổ chức, biên chế, kinh phí hoạt động như mô hình thanh tra hiện nay của Việt Nam, dẫn đến hạn chế hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thanh tra.
Về mặt lý luận, chúng ta có thể kiểm soát quyền lực bằng các phương pháp khác nhau như: Kiểm soát trong hay kiểm soát ngoài; trong đó kiểm soát trong là việc tự kiểm tra, tự kiểm soát. Về mặt lý thuyết thì đây là phương pháp kiểm soát mang lại hiệu quả cao nhất và triệt để nhất. Tuy nhiên trong thực tế đây lại là phương pháp rất khó có thể thực hiện bởi con người luôn có xu hướng tự biện minh, ngụy biện và thỏa hiệp đối với những sai lầm của chính bản thân mình. Như vậy, muốn kiểm soát được quyền lực nhà nước một cách triệt để và hiệu quả thì cần phải thực hiện tốt cơ chế kiểm soát ngoài tức là dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực; và nếu muốn như vậy thì quyền lực kiểm soát phải cân bằng với quyền lực bị kiểm soát và phải ở ngoài quyền lực bị kiểm soát.
Chính vì vậy, cần phải khẳng định rằng, mặc dù thanh tra thuộc khối hành pháp nhưng hoạt động của thanh tra nhà nước phải độc lập với các cơ quan quản lý hành chính. Vấn đề có vẻ mâu thuẫn nhưng thực chất là có lý, vì không thể đảm bảo kỷ cương pháp chế, đấu tranh mạnh mẽ với những biểu hiện vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước đối với đối tượng thanh tra nếu như thanh tra bị phụ thuộc và bị chi phối. Vì vậy, cần có chủ thể chuyên thực hiện chức năng thanh tra có thẩm quyền độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, tránh sự chỉ đạo, theo dõi kiểm tra của riêng người Thủ trưởng. Để đảm bảo tính khách quan, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ không thể tự sửa chữa chính bản thân mình bởi sự kiểm tra của cơ quan cấp dưới của mình.
Theo Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ có quyền rất rộng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, Chính phủ cần phải có bên cạnh mình bộ máy thanh tra mạnh nhằm kiểm tra các hoạt động quản lý từ trung ương đến địa phương. Tổng Thanh tra Chính phủ phải là người được Thủ tướng Chính phủ giới thiệu, Quốc hội bầu và Chủ tịch nước ký bổ nhiệm, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chính phủ về công tác thanh tra. Và nếu được, nên để một Phó Thủ tướng đứng đầu cơ quan thanh tra Chính phủ.
Về mặt thực tiễn, việc xây dựng hệ thống tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước trong những năm qua, nhất là theo Luật Thanh tra năm 2010 đến nay, cho thấy chúng ta đã từng bước làm rõ, tăng cường tính độc lập tương đối của các cơ quan thanh tra với Thủ trưởng các cơ quan quản lý cùng cấp. Tuy nhiên, mô hình tổ chức của các cơ quan thanh tra trong mối quan hệ với Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp cũng cho thấy sự phụ thuộc quá nhiều về tổ chức, hoạt động từ việc bổ nhiệm, miễn nhiệm người đứng đầu, bổ nhiệm cán bộ, công chức của cơ quan thanh tra nhà nước vào ngạch thanh tra, việc nâng ngạch thanh tra viên, cho đến xây dựng cơ cấu tổ chức, biên chế hành chính, kinh phí hoạt động, chương trình, kế hoạch thanh tra … đều do Thủ trưởng cơ quan hành chính quyết định. Điều này, dẫn đến tình trạng mất đi tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan thanh tra, đặc biệt là nguyên tắc hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật, dẫn đến giảm hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Với mô hình này, thì sẽ có rất nhiều kết luận của thanh tra “bị bỏ túi” bởi sự lạm quyền thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.
Ở nước ta, khác với các nước khác về nhiều lý do nhưng điều quan trọng theo chúng tôi là cần tổ chức thanh tra nhà nước ở các cấp thành một hệ thống, cần có sự chỉ đạo trực tiếp của Thanh tra Chính phủ về việc bổ nhiệm Chánh thanh tra và Thanh tra viên. Nên chăng giao toàn bộ quyền này cho Tổng Thanh tra nhưng có sự tham khảo ý kiến của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp. Đây không phải là điểm mới nhưng cần thiết phải đề cập bởi lẽ như trên đã phân tích, tính độc lập, khả năng xem xét ưu, khuyết điểm từ một thiết chế bên ngoài vào quá trình quản lý sẽ đem lại hiệu quả và trách nhiệm hành chính cao trong quản lý nhà nước.
2. Vai trò của thanh tra trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Cùng với việc xác định vị trí của cơ quan thanh tra, việc hoàn thiện vai trò của hoạt động thanh tra nhằm đáp ứng các yêu cầu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân cũng là vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra ở Việt Nam.
Với những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, hướng tới xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức hoạt động và quản lý xã hội trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước… hoạt động thanh tra tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, với vai trò của thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý, thông qua tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bản chất tốt đẹp là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, hướng đến phục vụ nhân dân, ở nơi đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thì mục đích của hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng cũng không nằm ngoài mục đích, bản chất của Nhà nước, hướng việc thực hiện các nhiệm vụ này để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện và bảo đảm cho công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, thanh tra thông qua tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, trên cơ sở đó đảm bảo các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Qua đó, thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp, đảm bảo tính pháp chế XHCN, tính tối thượng của pháp luật trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta.
Để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, đồng thời bảo đảm pháp luật được thực thi trong mọi mặt của đời sống xã hội, hoạt động thanh tra, phòng, chống tham nhũng, cùng với các thiết chế kiểm tra, giám sát khác, hoạt động thanh tra phải góp phần phòng ngừa, phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, hoạt động thanh tra lấy pháp luật làm thước đo, đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật của đối tượng thanh tra nhưng cũng thông qua hoạt động thanh tra phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân như quyền được sống, quyền được làm việc, học tập, mưu cầu hạnh phúc… việc xem xét, đánh giá trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải trên cơ sở pháp luật nhưng mặt khác phải đúng với hành vi, yếu tố lỗi để đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, để đối tượng thanh tra “tâm phục, khẩu phục” đối với kết luận thanh tra.
Với chức năng giải quyết khiếu nại, tố cáo, thanh tra phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và tự do công dân thông qua việc tổ chức tiếp công dân hiệu quả, lắng nghe những ý kiến, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của người dân. Giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nhưng phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo nguyên tắc “thấu tình, đạt lý”, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Thứ tư, thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhưng xét trong tổng thể cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước, thanh tra cũng là công cụ để bảo đảm thực hiện quyền lực Nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, qua đó để tránh sự tha hóa quyền lực, lộng quyền, làm quyền hoặc từ bỏ quyền lực trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy nhà nước.
Thông qua hoạt động thanh tra, giúp cho Người quản lý phát hiện ra những sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật để kịp thời sửa đổi hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, qua hoạt động thanh tra cũng kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những thiếu sót, khuyết điểm của bộ máy nhà nước.
Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, thanh tra giúp cho Thủ trưởng cơ quan quản lý kịp thời phát hiện những quyết định hành chính, hành vi hành chính có vi phạm pháp luật, để chỉnh sửa, thay thể, bổ sung, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Đặc biệt, qua thanh tra cũng phát hiện, chấn chỉnh những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác phòng, chống tham nhũng của các ngành, địa phương. Đồng thời, thanh tra cũng phát hiện ra những hành vi tiêu cực, tham nhũng để xử lý nghiêm minh theo thẩm quyền, qua đó phát huy vai trò phòng ngừa tham nhũng và ngăn chặn vi phạm pháp luật trong yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước.
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; chính bởi vậy muốn xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thì ngoài việc cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng mở rộng và tôn trọng các quyền tự do dân chủ của công dân, thì rất cần có sự phân định rạch ròi trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, cũng như tạo ra một cơ chế hữu hiệu để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó vị trí, vai trò của thanh tra tiếp tục được khẳng định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là một cơ chế quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi 2013), đã góp phần từng bước tạo ra sự phân định rạch ròi hơn, cụ thể hơn về quyền lực nhà nước cũng như cơ chế kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, hướng tới một bộ máy nhà nước hoạt động thực sự có hiệu quả, góp phần đưa đất nước tiến lên những tầm cao mới./.
Ths. Nguyễn Huy Hoàng
Phó Hiệu trưởng, Trường CBTT