I. Nội dung quy định pháp luật về trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan QLNN trong tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra và một số hạn chế, bất cập.
Nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong thực hiện kết luận thanh tra, nâng cao hiệu quả thực hiện kết luận thanh tra trên thực tế, Luật thanh tra 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định đề cao vai trò của thủ trưởng cơ quan QLNN trong thực hiện kết luận thanh tra.
Về trách nhiệm chung, Điều 8 Luật Thanh tra 2010 quy định “Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, xử lý kịp thời kết luận, kiến nghị thanh tra và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình”.
Ngoài ra, Luật còn quy định đối với Thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra thì có trách nhiệm chỉ đạo, yêu cầu đối tượng thanh tra thực hiện nghiêm chỉnh kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra. Trong trường hợp đối tượng thanh tra không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời thì Thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với các hành vi vi phạm[2].
Tiếp đó, tại Điều 40, Luật Thanh tra 2010 đã quy định về việc xử lý và chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra, xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Theo đó, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết luận thanh tra hoặc nhận được kết luận thanh tra, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra, các biện pháp có thể được áp dụng là:
– Xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý sai phạm về kinh tế;
– Xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật;
– Áp dụng, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật;
– Xử lý vấn đề khác thuộc thẩm quyền trong kết luận thanh tra.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định trách nhiệm pháp lý mà thủ trưởng cơ quan QLNN có thể phải chịu khi không xử lý hoặc xử lý không đầy đủ đó là “bị xem xét xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật”.
Nhằm làm rõ hơn những quy định của Luật về trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra năm 2010 đã dành 01 chương (Chương V, từ Điều 53-57) với các quy định về các đối tượng cụ thể, bao gồm:
(i) trách nhiệm của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra (Điều 53);
(ii) trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra (Điều 54);
(iii) trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra (Điều 55);
(iv) trách nhiệm của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra (Điều 56 và 57).
Để đảm bảo các kết luận thanh tra được thi hành trên thực tế, Điều 55 Nghị định 86/2011/NĐ-CP cũng đã quy định trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra, cụ thể như sau:
“1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra có trách nhiệm chỉ đạo, yêu cầu đối tượng thanh tra thực hiện nghiêm chỉnh kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra.
2. Trong trường hợp đối tượng thanh tra không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời thì Thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với các hành vi vi phạm”.
Trên cơ sở Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành, ngày 12/3/2013, Tổng Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 01/2013/TT-TTCP quy định về hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Đây là văn bản đầu tiên quy định tương đối cụ thể về trình tự, thủ tục theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Thông tư đã quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra[3].
Có thể thấy rằng, những quy định của Luật thanh tra 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra đã khắc phục được những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực hiện Luật Thanh tra 2004. Điểm mới này là bước tiến bộ trong hoàn thiện pháp luật về thanh tra, đặc biệt là từ góc độ bảo đảm thực hiện kết luận thanh tra. Với việc quy định cụ thể về thời hạn mà Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước phải chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận thanh tra (trong thời hạn 15 ngày); nội dung việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện (04 nội dung theo khoản 1 Điều 40 Luật Thanh tra 2010) sẽ giúp tăng cường trách nhiệm của chủ thể này trong công tác thanh tra; làm căn cứ xác định trách nhiệm khi tiến hành thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Những quy định này cũng ràng buộc rõ ràng hơn trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận thanh tra. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, những quy định hiện hành về vấn đề trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan QLNN trong tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra còn có một số hạn chế, bất cập như sau:
Một là, quy định hiện hành về trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan QLNN trong tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra còn khái quát, chỉ mang tính nguyên tắc, chưa đầy đủ, rõ ràng.
Hạn chế này của pháp luật hiện hành thể hiện ở những điểm sau đây:
– Về nội dung các quy định.
Điều 8 Luật thanh tra 2010 quy định về “trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước” mới quy định trách nhiệm của một số thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, bao gồm: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương , Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Tiếp đó, những quy định về trách nhiệm xử lý, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra tại Điều 40 của Luật Thanh tra 2010 chỉ quy định đối với hai nhóm chủ thể đó là: (i) Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc (iii) Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Tương tự như vậy, những quy định của Thông tư 01/2013/TT-TTCP chỉ quy định về hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra đối với các cơ quan thanh tra nhà nước. Trong khi trên thực tế, việc thực hiện và bảo đảm thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra là trách nhiệm của nhiều chủ thể pháp luật khác nhau, như: Đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến đối tượng thanh tra; cơ quan quản lý nhà nước, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; cơ quan thanh tra nhà nước, thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước, thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra, thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Từ đó, có thể thấy rằng những quy định về tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra rất khái quát bởi các quy định này chỉ tập trung vào các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định thanh tra, ban hành kết luận thanh tra hoặc trực tiếp quản lý đối tượng thanh tra mà chưa bao quát được hết những chủ thể có trách nhiệm phải tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra, xử lý kết luận thanh tra. Ví dụ như Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ, chủ tịch UBND cấp xã… Bởi lẽ, nội dung kết luận thanh tra thường rất rộng, liên quan đến cả những vấn đề rộng nhất như hoàn thiện chính sách, pháp luật hay vấn đề về xử lý cán bộ; về thu hồi tiền, tài sản; về hoàn thiện chính sách, pháp luật…, những vấn đề nêu trên có liên quan đến các bộ, ngành khác nhau trong việc quản lý đối tượng thanh tra. Do vậy, các chủ thể được đề nghị thực hiện kiến nghị này không chỉ là người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra hoặc thủ trưởng cơ quan quản lý đối tượng thanh tra, đối tượng thanh tra mà còn bao gồm các chủ thể khác. Theo kết quả rà soát, việc quy định trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong việc thực hiện kết luận thanh tra vẫn là vấn đề chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật[4].
Khắc phục những hạn chế nêu trên của Luật Thanh tra 2010, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP đã dành cả Chương V để quy định trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, xử lý đối với từng nhóm chủ thể cụ thể có liên quan đến việc thực hiện kết luận thanh tra. Tuy nhiên, các quy định này mới chỉ liệt kê được các nhóm chủ thể là thủ trưởng cơ quan QLNN có liên quan đến việc thực hiện kết luận thanh tra. Nội dung quy định lại chưa cụ thể, rõ ràng. Các quy định mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê những việc cần phải làm đối với từng chủ thể mà chưa quy định cụ thể thời hạn phải thực hiện, đặc biệt là chưa quy định các biện pháp bảo đảm việc thực hiện kết luận thanh tra.
– Về cách thức thực hiện trách nhiệm của các chủ thể:
Có thể thấy rằng, pháp luật thanh tra chưa quy định cụ thể về hình thức văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra của Thủ trưởng cơ quan QLNN. Thông thường, sau khi có kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan QLNN tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra thông qua việc ban hành văn bản về việc thực hiện kết luận thanh tra qua các hình thức (i) Ban hành quyết định hành chính, (ii) Công văn, (iii) Thông báo ý kiến chỉ đạo, (iv) Thông báo kết luận tại cuộc họp và các hình thức khác. Mỗi hình thức văn bản có giá trị pháp lý khác nhau và hiệu quả thực hiện trên thực tế là khác nhau. Vì pháp luật thanh tra chưa quy định cụ thể hình thức văn bản được ban hành thể hiện sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận thanh tra của thủ trưởng cơ quan QLNN nên việc thực hiện trên thực tế là không thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả việc thực hiện kết luận thanh tra trên thực tế.
Thứ hai, các quy định về trách nhiệm pháp lý (hậu quả pháp lý) chưa rõ để có thể áp dụng chế tài trong trường hợp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước không tổ chức, chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra hoặc việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra không đáp ứng được yêu cầu. Ngoài ra, hậu quả pháp lý đối với các chủ thể khác có liên quan thiếu trách nhiệm trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận thanh tra cũng chưa được quy định. Trên thực tế, khâu tổ chức thực hiện các kết luận thanh tra ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động thanh tra. Đây là khâu mà kết quả phụ thuộc vào Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc tổ chức thực hiện kết luận, đôn đốc cá nhân, tổ chức có liên quan thực hiện. Việc không có chế tài xử lý trách nhiệm dẫn đến nhiều khi Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước chưa quan tâm đến việc trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện và giám sát, theo dõi quá trình thực hiện; kiểm tra kết quả việc thực hiện trên thực tê.
Hiện nay, việc xác định trách nhiệm pháp lý theo nghĩa hậu quả bất lợi đối với các chủ thể có trách nhiệm thực hiện kết luận thanh tra nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chủ yếu được quy định trong các quy phạm pháp luật liên quan đến trách nhiệm thực hiện, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra nhưng nhiều quy định này còn rất chung chung, mang tính nguyên tắc. Ví dụ, trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra đối với các chủ thể khác là cơ quan, tổ chức hữu quan (bao gồm cả thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước khác) khi nhận được yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra sẽ được áp dụng quy định tại Khoản 3 Điều 11. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 11 Luật Thanh tra cũng chỉ ghi chung chung là “trách nhiệm thực hiện và trả lời bằng văn bản về việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý đó” mà không có quy định liên quan đến việc xử lý các hành vi vi phạm trong trường hợp các chủ thể có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung được thể hiện không đúng kết luận thanh tra. Khoản 2 Điều 57 Nghị định 86/2011/NĐ-CP cũng quy định chung rằng: “Trong trường hợp phát hiện đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý đối với hành vi vi phạm”. Hướng dẫn thực hiện hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, Thông tư số 01/2013/TT-TTCP cũng chỉ tập trung vào trình tự, thủ tục theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện mà chưa hướng dẫn chi tiết quy trình xử lý vi phạm trong trường hợp qua kiểm tra mà phát hiện các chủ thể, trong đó có thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc không tổ chức, chỉ đạo hoặc tổ chức, chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra không đúng quy định. Tại Điều 20 Thông tư số 01/2013/TT-TTCP hướng dẫn xử lý kết quả kiểm tra cũng chỉ quy định căn cứ kết quả kiểm tra, thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước, thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành yêu cầu thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp của đối tượng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền và quy định của pháp luật buộc đối tượng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hoàn thành việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Trong trường hợp việc chưa hoàn thành thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra gây thiệt hại thì buộc đối tượng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra chịu trách nhiệm bồi thường; Áp dụng thẩm quyền hoặc kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các hình thức kỷ luật, xử phạt hành chính và các hình thức khác theo quy định của pháp luật đối với các đối tượng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra có trách nhiệm khi không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng thời hạn trong kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Rõ ràng, các quy định này còn thiếu tính cụ thể về chế tài, đặc biệt là chế tài hành chính (kỷ luật) và chế tài vật chất (bồi thường).
Kết quả rà soát và đánh giá sơ bộ cho thấy các văn bản pháp luật về thanh tra hiện chưa có các quy định cụ thể về (i) biện pháp bảo đảm thực hiện kết luận thanh tra; (ii) chế tài xử lý các chủ thể có hành vi vi phạm trong việc thực hiện kết luận thanh tra; (iii) áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và pháp luật chuyên ngành khác trong việc thực hiện kết luận thanh tra[5].
Thứ ba, còn thiếu các quy định xác định tiêu chí đánh giá mức độ thực hiện trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra nên khó có căn cứ xác định mức độ thực hiện trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra. Bên cạnh đó, chính việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra của thủ trưởng cơ quan quản lý cũng còn vướng do thiếu quy định bảo đảm. Cụ thể là quy định của Pháp luật về Thanh tra còn bất cập, thiếu quy định về các biện pháp cưỡng chế trong xử lý sau thanh tra, chế tài xử lý trong việc không chấp hành thực hiện kết luận thanh tra, nhất là chưa có các văn bản hướng dẫn về trình tự thủ tục, xử lý sau thanh tra. Vì vậy, việc thực hiện trách nhiệm tổ chức, đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước còn hạn chế.
– Quy định hình thức văn bản chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra của từng nhóm chủ thể là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Theo đó, Nghị định cần quy định rõ các hình thức văn bản chỉ đạo (Quyết định hành chính, Công văn, Thông báo ý kiến chỉ đạo) với từng chủ thể là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ban hành nhằm thống nhất áp dụng cũng như tăng cường tính pháp lý của văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận thanh tra. Mặt khác, cần quy định cụ thể thời hạn phải thực hiện trách nhiệm ban hành văn bản và tiến độ mà các đối tượng phải thực hiện văn bản chỉ đạo thực hiện kết luận thanh tra.
– Quy định nội dung văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận thanh tra. Nội dung văn bản phải thể hiện rõ ý kiến về kiến nghị trong kết luận thanh tra; về việc chuyển hồ sơ vụ việc có dấu hiệu của tội phạm sang cơ quan điều tra; xác định trách nhiệm của đối tượng thanh tra, của cơ quan ban hành kết luận thanh tra, cơ quan quản lý trực tiếp đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện kết luận thanh tra.
– Quy định chế tài xử lý hành vi vi phạm đối với chủ thể có liên quan trong quá trình thực hiện kết luận thanh tra, nhất là chế tài đối với hành vi vi phạm của đối tượng thanh tra là nguyên nhân trực tiếp làm giảm hiệu lực của kết luận thanh tra.
ThS. Phạm Thị Huệ
Viện Khoa học Thanh tra
[1] Báo cáo kết quả công tác ngành Thanh tra các năm 2009, 2010, 2011
[2] Điều 55 Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra
[3] Vụ Pháp chế, TTCP, Báo cáo dẫn đề Hội thảo Hoàn thiện Nghị định quy định về việc thực hiện kết luận thanh tra.
[4] Vụ Pháp chế, TTCP, Báo cáo dẫn đề Hội thảo
[5] Vụ Pháp chế, TTCP, Báo cáo dẫn đề Hội thảo