Truyền thông giúp hình thành văn hóa đối thoại, giải trình, xây dựng môi trường công khai, minh bạch cho việc thảo luận, xây dựng và thực thi chính sách. Nội dung bài viết sẽ làm rõ vai trò của cơ quan nhà nước trong truyền thông chính sách, thực trạng thực hiện công tác truyền thông chính sách cũng như xử lý hoạt động phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí của cơ quan Thanh tra Chính phủ thời gian vừa qua.
1. Vai trò của cơ quan nhà nước trong truyền thông chính sách
Truyền thông chính sách là quá trình chuyển tải thông điệp, phương án chính sách, nội dung chính sách của cơ quan nhà nước đến người dân nhằm làm cho người dân hiểu rõ, tham gia xây dựng, đồng thuận trong quá trình thực thi và phản biện lại chính sách vì lợi ích của Nhà nước và của chính người dân. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong công tác truyền thông của các cơ quan nhà nước và là một nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ chu trình (xây dựng, thực thi) chính sách.
Thông qua công tác truyền thông, cơ quan nhà nước nhận diện được những vấn đề dư luận quan tâm, những vấn đề cần hoạch định, điều chỉnh chính sách để đưa vào kế hoạch đánh giá, tiến tới xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung chính sách. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước còn có thể lấy ý kiến tham gia của người dân, của chính các cơ quan báo chí, truyền thông đóng góp vào dự thảo báo cáo đánh giá tác động chính sách hoặc dự thảo nội dung chính sách cụ thể. Thông qua công tác truyền thông, cơ quan nhà nước cũng có thể gây tác động đến ý kiến công chúng, định hướng dư luận trong việc ủng hộ một chính sách nhất định, tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến chính sách tới người dân, giám sát việc thực hiện chính sách, phát hiện những vấn đề bất cập của chính sách, phát hiện việc lợi dụng chính sách, phản hồi về hiệu quả chính sách thông qua việc nắm bắt dư luận xã hội và thông qua chính sự thăm dò, khảo sát, đánh giá của cơ quan báo chí, truyền thông.
Để thực hiện công tác truyền thông chính sách, cơ quan nhà nước có thể tự mình thực hiện thông qua bộ phận làm công tác báo chí, truyền thông của cơ quan mình hoặc tiến hành thông qua các cơ quan báo chí, truyền thông bên ngoài. Nhưng tựu chung lại cơ quan nhà nước có vai trò chủ trì, tổ chức, điều phối công tác truyền thông thông qua việc xây dựng cơ sở pháp lý, kế hoạch cho công tác truyền thông, đảm bảo về tài chính cho công tác truyền thông, thiết lập bộ phận chuyên trách làm công tác truyền thông, định hướng nội dung truyền thông, tạo diễn đàn phản hồi, trao đổi trực tiếp qua các hội thảo, hội nghị, lấy ý kiến….
2. Thực trạng nhận thức và công tác truyền thông chính sách của Thanh tra Chính phủ thời gian vừa qua
Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Trong đó, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng có liên quan trực tiếp tới người dân, đòi hỏi sự hiểu biết và nhiệt tình tham gia của người dân nhất là trong việc tố cáo các hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức.
Thanh tra Chính phủ chưa có đơn vị làm công tác truyền thông chuyên nghiệp nhưng công tác truyền thông của cơ quan Thanh tra Chính phủ bước đầu đã được tiến hành thông qua các hình thức như: họp báo, trả lời phỏng vấn, thông cáo báo chí, giao ban báo chí, văn bản gửi các cơ quan báo chí, cổng thông tin điện tử, giải trình một số vấn đề dư luận quan tâm, lấy ý kiến góp ý các văn bản, truyên truyền phổ biến nội dung văn bản mới.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua công tác truyền thông nói chung và truyền thông chính sách nói riêng của cơ quan Thanh tra Chính phủ chưa thực sự được chú trọng. Công tác truyền thông còn thụ động, chưa quan tâm đến việc chủ động giải trình, minh bạch hoá thông tin cho người dân, chưa có bộ phận làm công tác truyền thông chuyên trách. Với ba cấp độ truyền thông cơ bản (cấp độ 1: chỉ cung cấp thông tin trên các phương tiện cơ bản, cấp độ 2: quan hệ với báo chí, làm việc với báo chí, cấp độ 3: có chiến lược truyền thông) thì Thanh tra Chính phủ gần như chỉ dừng lại ở cấp độ cung cấp thông tin trên các phương tiện cơ bản. Mức độ đơn giản nhất này trong thời gian qua cũng được dư luận đánh giá là chậm. Chính vì vậy, người dân thậm chí còn chưa hiểu hết về thẩm quyền của cơ quan thanh tra, đến ngay cả cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước khác cũng chưa hiểu hết nên đòi hỏi rất cao đối với cơ quan thanh tra trong việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. Trong khi đó, thẩm quyền của cơ quan thanh tra rất hạn hẹp, không thể tiến hành điều tra, tổ chức và hoạt động còn thiếu độc lập, phụ thuộc nhiều vào cơ quan hành chính nhà nước.
Nhận thức về công tác truyền thông của lãnh đạo Ngành cũng như các cán bộ, công chức chưa đầy đủ, đặc biệt là nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác truyền thông, còn e dè trong việc tiếp xúc, làm việc, cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí, truyền thông, lo ngại đối với mặt trái của truyền thông, thậm chí né tránh truyền thông. Bên cạnh đó còn chưa nhìn nhận và phát huy được khía cạnh tích cực của truyền thông chính sách ngay từ khi hoạch định, lên ý tưởng phương án lựa chọn cho đến khi thực hiện, không có kế hoạch để chủ động thực hiện, làm cho người dân hiểu hơn về Ngành, về các chính sách, quy định của Ngành, tạo ra các hiệu ứng truyền thông tích cực.
Các kênh cung cấp thông tin sẵn có của Thanh tra Chính phủ như Báo thanh tra, Tạp chí thanh tra, Trung tâm thông tin, Cổng thông tin điện tử,… chưa được khai thác, tận dụng thực sự hiệu quả vào công tác truyền thông chính sách, chưa kịp thời tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin đến cho người dân, xã hội về các chính sách mới. Thanh tra Chính phủ mới đơn thuần đăng tải dự thảo các văn bản pháp luật do cơ quan xây dựng để xin ý kiến đóng góp của tổ chức, công dân và đăng tải toàn văn bản sau khi ban hành.
Giai đoạn hoạch định, xây dựng chính sách, Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015 đã có sự thay đổi, điều chỉnh quan trọng, không quy định việc xin ý kiến dự thảo văn bản quy phạm pháp luật như Luật ban hành QPPL năm 2008 mà quy định việc tiến hành đánh giá tác động chính sách trong quá trình đề nghị xây dựng văn bản (đánh giá tác động trước khi bắt tay vào xây dựng dự thảo văn bản) để làm rõ vấn đề cần giải quyết; mục tiêu của chính sách; giải pháp để thực hiện chính sách; tác động tích cực, tiêu cực của chính sách, lựa chọn giải pháp của cơ quan, tổ chức và lý do của việc lựa chọn… Trong đó, báo cáo đánh giá tác động chính sách phải đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền với thời gian ít nhất là 30 ngày và đặc biệt là phải đăng tải cả báo cáo giải trình, tiếp thu các ý kiến góp ý đối với báo cáo đánh giá tác động chính sách. Tuy nhiên, cho đến nay, trong giai đoạn này, Thanh tra Chính phủ chưa tiến hành được việc đánh giá tác động và xin ý kiến vào báo cáo đánh giá tác động theo quy định của Luật ban hành văn bản QPPL mới. Thanh tra Chính phủ chưa thực sự coi trọng việc đánh giá tác động chính sách, thông qua công tác truyền thông, lấy ý kiến phản hồi từ phía người dân, xã hội để tìm ra phương án phù hợp, khả thi nhất trước khi bắt tay vào xây dựng văn bản. Điều này lý giải cho thực tế hiện nay khi rất nhiều chính sách sau khi được ban hành thì người dân mới biết và một số nội dung bị người dân phản ứng.
Giai đoạn thực hiện, đánh giá chính sách, Thanh tra Chính phủ đã tiến hành một số hoạt động như đăng tải các dự thảo văn bản, viết bài giới thiệu, tổ chức hội thảo, hội nghị tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách, cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí đăng tải… Tuy nhiên, chưa có diễn đàn, kênh phản hồi ý kiến của người dân về những vướng mắc, phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, đánh giá về tính khả thi, hiệu quả của chính sách. Mức độ đơn giản nhất là chuyên mục để người dân phản hồi, có ý kiến về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các chính sách, quy định liên quan đến các lĩnh vực công tác của ngành như khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng trên website của Thanh tra Chính phủ cũng chưa có.
3. Thực tiễn thực hiện Nghị định 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 của Chính phủ quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Thanh tra Chính phủ thời gian qua
Theo quy định của Nghị định 09/2017/NĐ-CP, các hình thức phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí gồm: tổ chức họp báo; đăng tải nội dung phát ngôn và cung cấp thông tin trên Cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử hoặc trang mạng xã hội chính thức của cơ quan hành chính nhà nước; phát ngôn trực tiếp hoặc trả lời phỏng vấn của nhà báo, phóng viên; gửi thông cáo báo chí, nội dung trả lời cho cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên bằng văn bản hoặc qua thư điện tử; cung cấp thông tin qua trao đổi trực tiếp hoặc tại các cuộc giao ban báo chí do trung ương, địa phương tổ chức khi được yêu cầu; ban hành văn bản đề nghị cơ quan báo chí đăng, phát phản hồi, cải chính, xin lỗi nội dung thông tin trên báo chí.
Đặc biệt, người phát ngôn hoặc người được ủy quyền phát ngôn có trách nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho báo chí trong các trường hợp đột xuất, bất thường sau:
Khi xảy ra các sự kiện, vấn đề quan trọng có tác động lớn trong xã hội hoặc khi dư luận xuất hiện nhiều ý kiến không thống nhất về một vấn đề thuộc phạm vi quản lý của cơ quan hành chính nhà nước thì người phát ngôn hoặc người được ủy quyền phát ngôn phải thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí để cảnh báo kịp thời và định hướng dư luận. Trường hợp xảy ra vụ việc cần có ngay thông tin ban đầu của cơ quan hành chính nhà nước thì người phát ngôn hoặc người được ủy quyền phát ngôn có trách nhiệm chủ động phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí trong thời gian chậm nhất là 24 giờ, kể từ khi vụ việc xảy ra.
Khi cơ quan báo chí hoặc cơ quan chỉ đạo, quản lý nhà nước về báo chí có yêu cầu phát ngôn hoặc cung cấp thông tin về các sự kiện, vấn đề của cơ quan, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan đã được nêu trên báo chí hoặc về các sự kiện, vấn đề vừa nêu trên.
Khi có căn cứ cho rằng báo chí đăng, phát thông tin sai sự thật về lĩnh vực, địa bàn do cơ quan mình quản lý, người phát ngôn hoặc người được ủy quyền phát ngôn yêu cầu cơ quan báo chí đó phải đăng, phát ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, Thanh tra Chính phủ trong thời gian vừa qua chưa thực hiện tốt vấn đề này. Một số sự cố truyền thông đáng tiếc xảy ra trong thời gian qua cũng do các cán bộ, công chức của cơ quan chưa biết cách thức trả lời trước báo chí, chưa hiểu hết về truyền thông. Việc nhận diện, xử lý khủng hoảng truyền thông chưa tốt, chưa mang tính chủ động, chưa có biện pháp xử lý cụ thể trước các khủng hoảng đặt ra. Người phát ngôn chưa chủ động gặp gỡ báo chí, thiếu kỹ năng phát ngôn, báo chí không hiểu chuyên môn của Ngành nên đôi khi thông tin chưa đúng. Ví dụ như khi kết luận thanh tra vụ việc Giám đốc Sở tài nguyên môi trường tỉnh Yên Bái chưa được ban hành, báo chí và dư luận có nhiều luồng thông tin trái chiều khác nhau gây dư luận không tốt nhưng Thanh tra Chính phủ chưa chủ động trong việc cung cấp thông tin giải trình kịp thời cho công luận. Khi kết luận thanh tra được ban hành, dư luận lại đặt câu hỏi về những sai phạm khác chưa được nêu ra trong khi cơ quan thanh tra đã kết luận toàn bộ các nội dung thuộc thẩm quyền của mình, để có được kết luận về những sai phạm khác dư luận còn thắc mắc cần đến sự điều tra của cơ quan công an mà không thuộc thẩm quyền của cơ quan thanh tra. Cùng với nhiều sự việc đáng tiếc liên quan đến truyền thông trong thời gian gần đây làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành Thanh tra, chúng ta cần có biện pháp để xây dựng năng lực truyền thông của cơ quan thanh tra và chấn chỉnh công tác này trong thời gian tới.
4. Một số đề xuất
Với những yêu cầu bức thiết đặt ra từ thực tế hiện nay, việc nâng cao nhận thức, chấn chỉnh công tác truyền thông của cơ quan Thanh tra Chính phủ thời gian tới là một trong những nhiệm vụ cần được quan tâm.
Cần phải thay đổi nhận thức về vai trò của công tác truyền thông nói chung và truyền thông chính sách nói riêng, cần nhìn nhận mặt tích cực của báo chí, truyền thông trong việc nâng cao chất lượng hoạch định, xây dựng, thực hiện, đánh giá, điều chỉnh chính sách. Thống nhất nhận thức rằng chu trình chính sách cần huy động, phát huy vai trò thể chế báo chí-truyền thông vào việc phản biện xã hội nhằm mục đích hoàn thiện chính sách và phát huy vai trò giám sát xã hội của báo chí – truyền thông – dư luận xã hội trong thực thi chính sách. Có như vậy mới bảo đảm chống, hạn chế lợi ích nhóm và lạm dụng quyền lực, bảo đảm đồng thuận xã hội và phát triển bền vững.
Cần chuyển đổi mô hình truyền thông chính sách từ chủ yếu tuyên truyền sang truyền thông; từ chủ yếu soạn thảo chính sách trong nội bộ sang huy động nguồn lực trí tuệ của xã hội, nhân dân tham gia phản biện, giám sát. Bởi vì chỉ có thể tạo dựng được đồng thuận xã hội cao khi đông đảo nhân dân, nhất là nhóm đối tượng chịu tác động chính sách được dễ dàng tham gia phản biện xã hội trong thiết kế chính sách, chỉ có thể gia tăng niềm tin của nhân dân vào thể chế, khi nhân dân được tạo điều kiện dễ dàng thuận lợi cho giám sát xã hội đối với thực thi chính sách. Cần có chiến lược truyền thông tức là truyền thông phải đi trước 1 bước, phải chủ động thay vì chỉ đơn thuần cung cấp thông tin như trước đây để lấy ý kiến của người dân về sự phù hợp, khả thi của các phương án chính sách, định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận trong triển khai thực hiện chính sách, nhận thông tin phản hồi về những vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách để điều chỉnh một cách kịp thời.
Chấn chỉnh tốc độ cung cấp thông tin của các công cụ hiện có như Cổng thông tin điện tử, báo thanh tra, tạp chí thanh tra… Bên cạnh đó, Thanh tra Chính phủ cần chủ động thông tin trên mạng xã hội, có thể nghiên cứu thiết lập các hình thức như thiết lập facebook của người đứng đầu, minh bạch thông tin để người dân hiểu chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan thanh tra, thiết lập các diễn đàn, các chuyên mục tiếp nhận ý kiến phản hồi của người dân về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định, chính sách thuộc các lĩnh vực công tác của ngành Thanh tra trên Cổng thông tin điện tử. Thông qua đó để xem xét, điều chỉnh kịp thời nội dung của các quy định, chính sách hiện hành và phát hiện những lỗ hổng chính sách để ban hành các quy định mới cần thiết. Các diễn dàn còn có thể cung cấp các vấn đề nóng, giải thích cho người quan tâm hiểu đúng vấn đề để không xảy ra khủng hoảng truyền thông.
Chủ động xây dựng văn bản pháp luật làm căn cứ pháp lý để thực hiện công tác truyền thông của cơ quan mình, dựa vào văn bản đó để từng cán bộ, công chức và bộ phận truyền thông biết được mình phải nói gì, trên phương tiện gì, ở đâu, nguồn lực như thế nào. Bên cạnh đó cần thiết lập bộ phận, đơn vị chuyên trách hoặc tích hợp trách nhiệm thực hiện công tác truyền thông cho đơn vị nhất định, đảm bảo bộ máy làm công tác này ở tất cả các cấp.
Tổ chức tập huấn các nội dung về công tác truyền thông nói chung, về các quy định của Nghị định 09/2017/NĐ-CP nói riêng, nâng cao kỹ năng truyền thông cho chủ thể là người phát ngôn và tổ chức thực hiện, giúp cho người phát ngôn biết họ có quyền gì, được phát ngôn gì, họp báo như thế nào, hành xử như thế nào trước báo chí, kỹ năng quan hệ với báo chí, kỹ năng tự truyền thông qua mạng, qua facebook…, bảo đảm cho đội ngũ này có quan điểm, thái độ đạo đức kỹ năng làm việc chuyên nghiệp, cập nhật hàng năm về công nghệ, chủ động hợp tác với báo chí, có ngân sách hợp tác với báo chí, tập huấn về tâm lý nhà báo để các cán bộ, công chức không còn sợ truyền thông, cởi mở với báo chí và giúp đỡ báo chí, giải thích khi cần để không gây hiểu lầm, cung cấp thông tin cho báo chí, chủ động tạo điều kiện cho báo chí tác nghiệp, hạn chế luồng thông tin sai lệch, không chính thống.
Thực hiện nghiêm các quy định của Nghị định 09/2007/NĐ-CP, nhất là cung cấp thông tin kịp thời, chủ động cho báo chí khi xảy ra các sự kiện, vấn đề quan trọng có tác động lớn trong xã hội hoặc khi dư luận xuất hiện nhiều ý kiến không thống nhất về một vấn đề thuộc phạm vi quản lý của cơ quan mình nhằm để dư luận hiểu rõ, thống nhất, tránh các luồng thông tin trái chiều, tiêu cực gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cơ quan, đơn vị, gây hoang mang trong dư luận.
Nguyễn Thị Thu Nga
Viện KHoa học Thanh tra