Thanh tra việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là hoạt động cần thiết và thường xuyên nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DNNN. Do đó, hoàn thiện pháp luật thanh tra liên quan đến thanh tra việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DNNN là cần thiết.
ThS Đỗ Mạnh Hùng, Cục trưởng Cục IX cho rằng, hoàn thiện pháp luật thanh tra liên quan đến thanh tra việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DNNN là cần thiết. Ảnh: TH
Pháp luật về thanh tra quản lý vốn, tài sản Nhà nước còn nhiều “khoảng trống”
Đánh giá thực trạng pháp luật về thanh tra việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DNNN, theo ThS Đỗ Mạnh Hùng, Cục trưởng Cục IX, Thanh tra Chính phủ, hiện nay hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, từ luật đến các nghị định, thông tư hướng dẫn, tạo cơ sở pháp lý để thanh tra, giám sát việc sử dụng vốn, tài sản Nhà nước.
Tuy nhiên, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DNNN vẫn còn một số tồn tại, hạn chế: Chưa kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; một số pháp luật chưa phù hợp với hoạt động thực tiễn cũng như định hướng cơ cấu lại doanh nghiệp có vốn Nhà nước hoạt động hiệu quả.
Chồng chéo về thẩm quyền thanh tra giữa các cơ quan, dẫn đến hiệu quả giám sát chưa cao; quy định về xử lý vi phạm chưa đủ mạnh, nhiều trường hợp thất thoát vốn chỉ bị xử lý hành chính hoặc kỷ luật, thiếu chế tài hình sự răn đe; thiếu cơ chế giám sát độc lập, đặc biệt với DNNN lớn như tập đoàn, tổng công ty Nhà nước; báo cáo tài chính chưa minh bạch, một số DNNN che giấu sai phạm thông qua các giao dịch liên kết phức tạp; khó khăn trong thu hồi vốn thất thoát do thiếu quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường của cá nhân quản lý.
Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ (Blockchain, AI) để giám sát minh bạch dòng vốn Nhà nước hầu như chưa thực hiện; vai trò của Kiểm toán Nhà nước và cơ quan độc lập trong giám sát DNNN còn đang mờ nhạt; cơ chế bảo vệ người tố cáo sai phạm trong quản lý vốn Nhà nước còn chưa được hoàn thiện…
“Như vậy, pháp luật về thanh tra quản lý vốn, tài sản Nhà nước tại DNNN đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn tồn tại khoảng trống trong giám sát và xử lý vi phạm. Cần sửa đổi đồng bộ để nâng cao hiệu quả quản lý, tránh thất thoát ngân sách Nhà nước”, theo ông Hùng.
Pháp luật thiếu quy định rõ ràng về phạm vi, đối tượng thanh tra; chưa xác định cụ thể những loại hình doanh nghiệp nào phải chịu thanh tra thường xuyên, dẫn đến tình trạng bỏ sót hoặc chồng chéo trong công tác thanh tra; việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan như Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài chính, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan chủ quản doanh nghiệp đôi khi không rõ ràng, gây khó khăn trong phối hợp.
Thiếu cơ chế giám sát độc lập và minh bạch, công tác thanh tra chủ yếu dựa vào báo cáo nội bộ của doanh nghiệp, trong khi khả năng tự giám sát của DNNN còn yếu; sự tham gia của các bên độc lập như kiểm toán tư nhân, truyền thông, cổ đông công chúng còn hạn chế.
Cùng với đó, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe, mức xử phạt vi phạm trong quản lý vốn, tài sản Nhà nước thường thấp hơn so với thiệt hại thực tế; trách nhiệm cá nhân người đứng đầu chưa được làm rõ, nhiều trường hợp chỉ xử lý kỷ luật thay vì truy cứu hình sự.
Theo ông Hùng, công tác thanh tra chủ yếu dựa vào cơ quan Nhà nước, thiếu sự tham gia của các bên độc lập như kiểm toán độc lập, tổ chức xã hội. Việc công khai thông tin về quản lý vốn, tài sản chưa đầy đủ, gây khó khăn cho giám sát từ bên ngoài.
Cơ chế xử lý trách nhiệm cá nhân vi phạm chưa nghiêm, dẫn đến tâm lý né tránh, thiếu quyết liệt trong thanh tra; vẫn tồn tại cơ chế “xin-cho” và lợi ích nhóm; một số DNNN vẫn hoạt động theo cơ chế bao cấp, phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước, dẫn đến lãng phí, thất thoát; lợi ích nhóm trong doanh nghiệp có thể can thiệp vào quá trình thanh tra, làm giảm tính khách quan.
Thiếu cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tự giám sát. Pháp luật chưa có quy định rõ ràng về việc khen thưởng DNNN quản lý tốt vốn Nhà nước hoặc xử phạt nghiêm minh các vi phạm; chưa phát huy vai trò của Ban kiểm soát, Hội đồng quản trị trong nội bộ DNNN.
Xây dựng chương “Thanh tra DNNN”
Để khắc phục bất cập của pháp luật tại đề tài khoa học “Thanh tra việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DNNN – Thực trạng và giải pháp”, ThS Đỗ Mạnh Hùng cho rằng, cần hoàn thiện pháp luật thanh tra theo hướng thanh tra việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại DNNN.
Theo đó, cần rà soát, hệ thống hóa và bổ sung văn bản quy phạm pháp luật. Xây dựng chương “Thanh tra DNNN” trong pháp luật thanh tra, quy định rõ khái niệm, phạm vi, hình thức (định kỳ, đột xuất, chuyên đề) thanh tra vốn, tài sản công tại DNNN; thẩm quyền, trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ, bộ/ngành, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu, Ban kiểm soát nội bộ.
Sửa đổi Luật Quản lý, đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (68/2025/QH15) để làm rõ căn cứ pháp lý, thủ tục khởi xướng thanh tra, yêu cầu cung cấp hồ sơ, dữ liệu; bổ sung quy định về bảo mật hồ sơ, xử lý thông tin sai lệch.
Điều chỉnh Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán và các nghị định, thông tư hướng dẫn. Quy định bắt buộc lưu trữ, công khai báo cáo tài chính, báo cáo nội bộ phục vụ thanh tra; chuẩn hóa biểu mẫu, tiêu chí sổ sách về vốn, tài sản và phương pháp trích khấu hao tài sản cố định.
Luật hóa mô hình phối hợp “4 bên” nhằm hạn chế chồng chéo theo hướng Thanh tra Chính phủ (hậu kiểm chung), Kiểm toán Nhà nước (kiểm toán tài chính), bộ, ngành (thanh tra chuyên ngành) và cơ quan đại diện chủ sở hữu (giám sát nội bộ); cơ chế chia sẻ dữ liệu, thông báo lịch thanh tra, kết luận, tránh thanh tra trùng lặp.
Bổ sung quy định thanh tra hiệu quả kinh tế và đánh giá rủi ro. Yêu cầu thanh tra dựa trên kế hoạch quản lý rủi ro, ưu tiên dự án, đơn vị có quy mô lớn hoặc có tín hiệu cảnh báo (vượt chi, tăng nợ, chậm quyết toán); định kỳ cập nhật danh mục rủi ro để điều chỉnh kế hoạch thanh tra.
Yêu cầu DNNN triển khai phần mềm quản lý doanh nghiệp giúp tích hợp các doanh nghiệp quản lý để điều phối các hoạt động kinh doanh cốt lõi như tài chính, nhân sự, sản xuất, chuỗi cung ứng, bán hàng và mua sắm trên một nền tảng duy nhất; xây dựng hệ thống quản trị rủi ro – GRC (Governance-Risk-Compliance) để tập hợp các năng lực tích hợp cho phép doanh nghiệp đạt được mục tiêu tin cậy, hạn chế rủi ro để đạt được hiệu suất cao. Truy thu phần thất thoát vốn, tài sản công; xử lý hình sự đối với hành vi cố ý làm trái, tham ô, lạm dụng chức vụ…
Thái Hải
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)