Ngày 15/7/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 76/NQ-CP về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn từ 2021-2030, trong đó xác định nhiệm vụ cải cách hành chính được coi là một trong những bước đột phá để phát triển đất nước.
Công cuộc cải cách hành chính nhà nước lần này tiếp tục hướng tới xây dựng một nền hành chính
phục vụ, phải
xuất phát từ lợi ích của người dân, doanh nghiệp, lấy sự hài lòng của người
dân, doanh nghiệp là thước đo đánh giá chất lượng phục vụ của cơ quan hành
chính nhà nước các cấp.
Với mục tiêu chung của Chương trình là phải “tiếp tục xây dựng một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh
gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ
nhân dân, trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” thì cơ quan nhà nước ở các cấp, các ngành từ Trung
ương đến địa phương nói chung và với hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước
nói riêng cần phải có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về những mục tiêu cần đạt được
cũng như trách nhiệm và các biện pháp tổ chức thực hiện để sao cho tiếp tục
thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính với lộ trình, bước đi phù hợp, tránh mọi biểu hiện bàng
quan, thiếu tự tin, thụ động, nhưng không nóng vội, chủ quan, duy ý chí ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của nhiệm vụ này
trong thời gian tới.
1. Những mục tiêu phải đạt được
Theo Nghị quyết số 76/NQ-CP của Chính phủ, công
cuộc cải
cách hành chính nhà nước tập trung vào 6
cải cách thể
chế (i); Cải cách thủ tục hành chính (ii); Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước (iii); Cải cách chế độ công vụ (iv); Cải cách tài chính công (v) và xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số (vi), được chia thành 2 giai đoạn, từ năm 2021 đến 2025 và từ 2025 đến năm 2030.
a) Về cải cách thể chế
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ
thống thể chế của nền hành chính nhà nước, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực;
nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đồng bộ, hiện đại, hội nhập; tổ chức thi hành pháp luật nghiêm minh, hiệu quả,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội.
– Đến năm 2025, cơ bản hoàn thiện
hệ thống thể chế của nền hành chính nhà nước, trọng tâm là thể chế về tổ chức
bộ máy và quản lý cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển. Tiếp tục hoàn thiện thể chế
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt
hơn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng
bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính
sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho
mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Hoàn thiện thể chế và các
khung khổ pháp lý để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phục vụ có hiệu quả việc
xây dựng, phát triển Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số.
– Đến năm 2030: Hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế của nền hành chính hiện đại, thể
chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo được bước
đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc
đẩy phát triển đất nước.
b) Về cải cách thủ tục hành
chính
Cải cách quyết liệt, đồng bộ,
hiệu quả quy định thủ tục hành chính liên quan đến người dân, doanh nghiệp; thủ
tục hành chính nội bộ giữa cơ quan hành chính nhà nước; rà soát, cắt giảm, đơn
giản hóa điều kiện kinh doanh, thành phần hồ sơ và tối ưu hóa quy trình giải
quyết thủ tục hành chính trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin; bãi
bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện, nâng cao chất lượng
môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh
bạch; đổi mới và nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
trong giải quyết thủ tục hành chính. Đẩy mạnh thực hiện thủ tục hành chính trên
môi trường điện tử để người dân, doanh nghiệp có thể thực hiện dịch vụ mọi lúc,
mọi nơi, trên các phương tiện khác nhau.
– Đến năm 2025: Cắt giảm, đơn
giản hóa tối thiểu 20% số quy định và cắt giảm tối thiểu 20% chi phí tuân thủ
quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tại các văn bản đang có hiệu lực
thi hành tính đến hết ngày 31/5/2020.
Hoàn thành việc đổi mới thực hiện
cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính theo
hướng nâng cao chất lượng phục vụ, không theo địa giới hành chính, tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin, giảm thời gian đi lại, chi phí xã hội và tạo
thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Tối thiểu 80% hồ sơ giải quyết
thủ tục hành chính được luân chuyển trong nội bộ giữa các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết hoặc các cơ quan có liên quan được thực hiện bằng phương thức điện
tử.
Tối thiểu 80% thủ tục hành chính
có yêu cầu nghĩa vụ tài chính, được triển khai thanh toán trực tuyến, trong số
đó, tỷ lệ giao dịch thanh toán trực tuyến đạt từ 30% trở lên.
Năm 2021, số hóa kết quả giải
quyết thủ tục hành chính đang còn hiệu lực và có giá trị sử dụng thuộc thẩm
quyền giải quyết của cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã đạt tỷ lệ tối
thiểu tương ứng là 40%, 30%, 20%, 15%; giai đoạn 2022 – 2025, mỗi năm tăng tối
thiểu 20% đối với mỗi cấp hành chính cho đến khi đạt tỷ lệ 100% để đảm bảo việc
kết nối, chia sẻ dữ liệu trong giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường
điện tử.
Tối thiểu 80% thủ tục hành chính
của các bộ, ngành, địa phương, có đủ điều kiện, được cung cấp trực tuyến mức độ
3 và 4. Trong số đó, ít nhất 80% thủ tục hành chính được tích hợp, cung cấp
trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến mức độ 3 và 4
trên tổng số hồ sơ đạt tối thiểu 50%. Mức độ hài lòng của người dân, doanh
nghiệp về giải quyết thủ tục hành chính đạt tối thiểu 90%. Trong đó, mức độ hài
lòng về giải quyết các thủ tục hành chính lĩnh vực đất đai, xây dựng, đầu tư
đạt tối thiểu 85%.
90% thủ tục hành chính nội bộ
giữa cơ quan hành chính nhà nước được công bố, công khai và cập nhật kịp thời.
80% người dân, doanh nghiệp khi
thực hiện thủ tục hành chính không phải cung cấp lại các thông tin, giấy tờ,
tài liệu đã được chấp nhận khi thực hiện thành công thủ tục hành chính trước
đó, mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính đang quản
lý, hoặc thông tin, giấy tờ, tài liệu đã được cơ quan nhà nước kết nối, chia
sẻ.
– Đến năm 2030:
100% thủ tục hành chính, có yêu
cầu nghĩa vụ tài chính, được triển khai thanh toán trực tuyến, trong số đó, tỷ
lệ giao dịch thanh toán trực tuyến đạt từ 50% trở lên. Tối thiểu 90% thủ tục
hành chính của các Bộ, ngành, địa phương, có đủ điều
kiện, được cung cấp trực tuyến mức độ 3 và 4, đồng thời, hoàn thành việc tích
hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực
tuyến mức độ 3 và 4 trên tổng số hồ sơ đạt tối thiểu 80%.
90% số lượng người dân, doanh
nghiệp tham gia hệ thống Chính phủ điện tử được xác thực định danh điện tử
thông suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống thông tin của các cấp chính
quyền từ Trung ương đến địa phương. Mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp
về giải quyết thủ tục hành chính đạt tối thiểu 95%. Trong đó, mức độ hài lòng
về giải quyết các thủ tục hành chính lĩnh vực đất đai, xây dựng, đầu tư đạt tối
thiểu 90%. Môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia
hàng đầu.
c) Cải cách tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước
Tiếp tục rà soát chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, định rõ việc của cơ quan hành
chính nhà nước; phân định rõ mô hình tổ chức chính quyền nông thôn, đô thị, hải
đảo và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Tăng cường đổi mới, cải tiến
phương thức làm việc nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước và sắp xếp, tinh gọn hệ thống tổ chức cơ quan hành chính nhà nước các cấp
theo quy định. Đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước; tăng cường rà soát, sắp xếp
lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, có cơ cấu hợp
lý và nâng cao hiệu quả hoạt động.
– Đến năm 2025: Hoàn thành việc
nghiên cứu, đề xuất mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống hành chính nhà nước
phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn mới. Phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục
được tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các
cơ quan, tổ chức trong hệ thống hành chính nhà nước. Hoàn thành việc sắp xếp
thu gọn các đơn vị hành chính cấp huyện, xã và thôn, tổ dân phố theo tiêu chuẩn
quy định. Giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% số lượng đơn vị sự nghiệp công
lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách Nhà nước so với năm 2021. Mức độ hài lòng của người dân,
tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt tối thiểu 90%.
Mức độ hài lòng của người dân về cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục công lập đạt
tối thiểu 85%.
– Đến năm 2030: Tiếp tục sắp xếp,
kiện toàn cơ cấu tổ chức Chính phủ theo hướng giảm hợp lý đầu mối các Bộ, cơ quan ngang Bộ và giảm tương ứng số cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; giảm mạnh đầu mối các tổ chức trung gian. Tiếp
tục giảm bình quân 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách Nhà nước so với năm 2025. Mức độ hài lòng của người dân,
tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt tối thiểu 95%.
Mức độ hài lòng của người dân về cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục công lập đạt
tối thiểu 90%. Phân định rõ và tổ chức thực hiện mô hình chính quyền nông thôn,
đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
d) Cải cách chế độ công vụ
Xây dựng nền công vụ chuyên
nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài. Thực hiện cơ chế cạnh tranh lành
mạnh, dân chủ, công khai, minh bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng
công chức, viên chức để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong
các cơ quan hành chính nhà nước.
– Đến năm 2025: Xây dựng được đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức có cơ cấu hợp lý, đáp ứng tiêu chuẩn chức
danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.
– Đến năm 2030: Xây dựng được đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng,
cơ cấu hợp lý; đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ: 50% – 60% số lãnh đạo, quản lý cấp
phòng, vụ, cục, tổng cục và tương đương ở Trung ương, 25% – 35% số lãnh đạo,
quản lý cấp sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện và tương đương, trên 30% số
lãnh đạo, quản lý cấp phòng trực thuộc sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện và
tương đương, 80% số lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước có đủ khả năng làm
việc trong môi trường quốc tế. 100% cán bộ, công chức cấp xã có trình độ cao
đẳng, đại học và được chuẩn hoá về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ
năng làm việc.
e) Cải cách tài chính công
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân bổ,
sử dụng ngân sách Nhà nước cho cơ quan hành chính,
đơn vị sự nghiệp công lập gắn với nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra, nhằm
nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thúc đẩy sự sáng tạo; nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động; kiểm soát tham nhũng tại các cơ quan, đơn vị.
Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý vốn
nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
– Đến năm 2025: Tập trung hoàn
thiện hệ thống pháp luật để đổi mới cơ chế quản lý, phân bổ ngân sách Nhà nước theo hướng bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách
Trung ương và chủ động, tích cực của ngân sách địa phương. Tiếp tục rà soát,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính đối
với các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Đến năm 2025,
có tối thiểu 20% đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên; 100%
đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác, có đủ điều kiện, hoàn thành việc
chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc chuyển sang tự bảo đảm chi thường xuyên
và chi đầu tư.
– Đến năm 2030: Hoàn thiện đầy đủ
và đồng bộ hệ thống pháp luật để thể chế hóa các chủ trương của Đảng về đổi mới
cơ chế quản lý, cơ chế tài chính của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự
nghiệp công lập. Giảm bình quân 15% chi trực tiếp từ ngân sách Nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn
2021 – 2025.
g) Xây dựng và phát triển
Chính phủ điện tử, Chính phủ số
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin, chuyển đổi số và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ thúc đẩy hoàn
thành xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, góp phần đổi mới
phương thức làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước các cấp có đủ năng lực vận hành nền kinh tế số, xã hội số đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc
tế; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân, tổ chức.
– Đến năm 2025:
100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền
tảng phát triển Chính phủ điện tử được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn
quốc.
100% Cổng Dịch vụ công, Hệ thống
thông tin một cửa điện tử cấp Bộ, cấp tỉnh được kết nối,
chia sẻ dữ liệu với Cổng Dịch vụ công quốc gia.
100% người dân, doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ công trực tuyến được cấp định danh và xác thực điện tử thông suốt
và hợp nhất trên tất cả các hệ thống tin của các cấp chính quyền từ Trung ương
đến địa phương.
80% các hệ thống thông tin của Bộ, ngành, địa phương có liên quan đến người dân, doanh
nghiệp đã đưa vào vận hành, khai thác được kết nối, liên thông qua Trục liên
thông văn bản quốc gia và nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu; thông tin của
người dân, doanh nghiệp đã được số hóa và lưu trữ tại các cơ sở dữ liệu quốc
gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, không phải cung cấp lại.
100% hệ thống báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương được kết nối liên thông, chia sẻ dữ
liệu với Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia. Triển khai nhân rộng Hệ thống
thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ đến Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, cấp huyện: 100% cấp tỉnh, 80% cấp huyện thực hiện họp thông qua Hệ thống
này đối với các cuộc họp của Ủy ban nhân dân.
90% hồ sơ công việc tại cấp Bộ, cấp tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ
sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc
thuộc phạm vi bí mật Nhà nước).
50% hoạt động kiểm tra của cơ
quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông
tin của cơ quan quản lý.
100% Bộ, ngành, địa phương hoàn thành việc xây dựng và đưa vào
vận hành Phân hệ theo dõi nhiệm vụ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân và
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao, bảo đảm hiển thị theo thời gian thực. Việt
Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
– Đến năm 2030:
100% dịch vụ công trực tuyến mức
độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết
bị di động.
100% hồ sơ công việc tại cấp Bộ, cấp tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 70% hồ
sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (không bao gồm hồ sơ xử
lý công việc có nội dung mật).
70% hoạt động kiểm tra của cơ
quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông
tin của cơ quan quản lý.
Tối thiểu 80% người trưởng thành
có tài khoản giao dịch tại ngân hàng. Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về
Chính phủ điện tử (EGDI).
2. Trách
nhiệm thực hiện Chương trình
Để thực hiện thành công Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021- 2030,
Chính phủ giao trách nhiệm cho các Bộ, ngành,
địa phương trong việc tổ chức thực hiện. Cụ thể:
Bộ Nội vụ
là cơ quan thường trực tổ chức triển khai thực hiện Chương trình. Chủ trì triển
khai các nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính, cải cách chế độ công vụ
và cải cách chính sách tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức; phối hợp
với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an triển khai các nội dung cải cách chính sách tiền
lương cho lực lượng vũ trang nhân dân.
Bộ Tư
pháp có trách nhiệm theo dõi, tổng hợp việc triển khai nội dung cải cách thể
chế. Chủ trì triển khai nhiệm vụ đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Chủ
trì xây dựng và vận hành có hiệu quả Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đảm bảo
thống nhất với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Văn phòng
Chính phủ có trách nhiệm chủ trì triển khai nội dung cải cách thủ tục hành
chính. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc phát triển, quản
lý, vận hành Cổng Dịch vụ công quốc gia; Trục liên thông văn bản quốc gia; Hệ
thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ; Hệ thống thông
tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ; Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu theo dõi về thực hiện nhiệm
vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao; hoàn thiện Cơ sở dữ liệu về các quy
định liên quan đến hoạt động kinh doanh và Cổng tham vấn điện tử. Xây dựng,
trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý, vận hành khai thác Hệ thống
thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin chỉ đạo điều hành của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm xây
dựng kế hoạch cải cách hành chính để triển khai thực hiện Chương trình, bảo đảm
đúng lộ trình cải cách của Chính phủ. Bên cạnh đó, các Bộ, cơ quan còn được giao chủ trì xây dựng và thực hiện một số đề án có quy mô quốc gia kèm theo.
Các Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Thông tấn xã Việt Nam, Đài
Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ,
các cơ quan thông tin, báo chí Trung ương và địa phương căn cứ chức năng, nhiệm
vụ của mình và nội dung công việc được phân công trong Đề án để tổ chức triển
khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được nêu trong Đề án.
Đối với
kinh phí thực hiện Chương trình được bố trí từ nguồn ngân sách Nhà nước theo phân cấp ngân sách Nhà nước
hiện hành. Chính phủ cũng khuyến khích việc huy động theo quy định của pháp
luật các nguồn kinh phí ngoài ngân sách Trung ương
để triển khai Chương trình./.
TS. Nguyễn Huy Hoàng
TTVCC
– Phó Hiệu trưởng, Trường Cán bộ Thanh tra