- Đặt vấn đề
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW (2013) và gần đây là Nghị quyết số 71-NQ/TW (2025) của Bộ Chính trị, việc tăng cường công cụ kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm hiệu quả quản lý giáo dục ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết. Kiểm tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là hoạt động thực thi pháp luật, mà còn là cơ chế bảo đảm kỷ cương, thúc đẩy tính minh bạch và nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, hoạt động này hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế như chồng chéo về thẩm quyền, thiếu nguồn lực, năng lực cán bộ chưa đồng đều và chưa gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu phát triển giáo dục. Do đó, nghiên cứu hoạt động kiểm tra chuyên ngành từ tiếp cận quản lý giáo dục là cần thiết.
Hoạt động kiểm tra chuyên ngành trong giáo dục ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở hệ thống các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và triển khai trước hết phải kể đến: Hiến pháp năm 2013, khẳng định vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển của nền giáo dục đồng thời đặt nền tảng pháp lý cho việc bảo đảm kỷ cương, trật tự trong quản lý giáo dục. Luật Giáo dục 2019 cũng quy định trách nhiệm quản lý nhà nước toàn diện về giáo dục, trong đó bao gồm hoạt động thanh tra, kiểm tra. Luật Thanh tra năm 2025 có đề cập đến hoạt động thanh tra, kiểm toán, giám sát và kiểm tra chuyên ngành, qua đó xác lập vị trí pháp lý cho kiểm tra chuyên ngành như một công cụ giám sát chuyên biệt. Nghị định số 216/2025/NĐ-CP quy định một số điều và hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra, đặc biệt lần đầu tiên có một Nghị định về kiểm tra chuyên ngành đó là Nghị định số 217/2025/NĐ-CP, quy định về hoạt động kiểm tra chuyên ngành, hướng tới hạn chế sự chồng chéo, tăng cường minh bạch và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra chuyên ngành. Các thông tư, quyết định, văn bản hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thanh tra Chính phủ và các cơ quan quản lý liên quan sẽ tiếp tục cụ thể hóa quy định của pháp luật nhằm bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn. Như vậy, khung pháp lý đã và đang dần được hoàn thiện, tạo cơ sở để hoạt động kiểm tra chuyên ngành trong quản lý giáo dục được tiến hành thống nhất, đồng bộ, công khai và minh bạch.
Trong hệ thống các công cụ quản lý, kiểm tra chuyên ngành giữ vị trí then chốt đóng vai trò vừa là cơ chế giám sát pháp lý vừa là công cụ quản trị hiện đại. Thông qua hoạt động kiểm tra chuyên ngành chủ thể quản lý có thể nắm bắt thực trạng, phát hiện sai phạm, kiến nghị biện pháp khắc phục hoặc xử lý kịp thời tránh để lại hậu quả nghiêm trọng. Dưới tiếp cận quản lý giáo dục, hoạt động kiểm tra chuyên ngành không chỉ dừng lại ở việc xem xét, phát hiện và xử lý vi phạm, mà còn hướng tới việc phòng ngừa, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển bền vững của hệ thống giáo dục. Bài viết này tập trung phân tích cơ sở lý luận, khung pháp lý, vai trò, thách thức và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý hoạt động kiểm tra chuyên ngành trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay. Việc nghiên cứu hoạt động kiểm tra chuyên ngành từ tiếp cận quản lý giáo dục có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, trước tiên về lý luận sẽ góp phần làm rõ khái niệm, bản chất, vị trí và nguyên tắc của kiểm tra chuyên ngành trong hệ thống quản lý giáo dục. Đồng thời cung cấp căn cứ khoa học cho việc đánh giá sự cần thiết phải có khung pháp lý về công tác kiểm tra chuyên ngành, xác định những thách thức khi thực hiện từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra chuyên ngành trong bối cảnh triển khai Nghị định 217/2025 của Chính phủ và các văn bản liên quan. Đặc biệt nghiên cứu sẽ đóng góp các luận cứ cho việc xây dựng, điều chỉnh chính sách quản lý giáo dục, đảm bảo hoạt động kiểm tra vừa tuân thủ pháp luật, vừa hỗ trợ, định hướng giáo dục phát triển bền vững .
2. Cơ sở lý luận của hoạt động kiểm tra chuyên ngành từ tiếp cận quản lý giáo dục
2.1. Những khái niệm cơ bản
– Kiểm tra: Theo từ điển tiếng Việt thì “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét”. Theo Từ Điển Luật học thì kiểm tra là xem xét tình hình thực tế việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét. Kiểm tra là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới, của thủ trưởng đối với nhân viên. Hiểu một cách chung nhất, kiểm tra là hoạt động mà chủ thể kiểm tra tiến hành xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra để đưa ra những đánh giá, nhận xét, kiến nghị, xử lý. Để hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học phục vụ sự nghiệp giáo dục và đào tạo được hiệu quả thì không thể thiếu công tác kiểm tra. Kiểm tra là hoạt động thường xuyên nên không thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu, nếu chỉ có những người lãnh đạo và những cán bộ tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động kiểm tra công việc. Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề nếp kiểm tra trong nội bộ và giữa các đơn vị phối hợp. Cơ sở kiểm tra là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhân tố chủ quan và khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.
– Kiểm tra chuyên ngành: Theo Nghị định 217/2025/NĐ-CP ngày 05/8/2025 quy định về hoạt động kiểm tra chuyên ngành thì kiểm tra chuyên ngành là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền đối với việc chấp hành pháp luật chuyên ngành của cơ quan, tổ chức, cá nhân (sau đây gọi là tổ chức, cá nhân) thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Thực chất hoạt động kiểm tra chuyên ngành nhằm chấn chỉnh và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật chuyên ngành; phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và áp dụng hoặc kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp theo quy định của pháp luật để xử lý kịp thời hành vi vi phạm; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Qua kiểm tra chuyên ngành, yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan thanh tra có thẩm quyền tiến hành thanh tra khi cần thiết; nếu có dấu hiệu tội phạm thì kiến nghị khởi tố và chuyển hồ sơ vụ việc, tài liệu có liên quan đến cơ quan điều tra để xem xét, quyết định việc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
– Tiếp cận lý luận chuyên ngành từ khoa học quản lý: Chức năng kiểm tra trong quản lý: kiểm tra là một trong bốn chức năng cơ bản (lập kế hoạch – tổ chức – chỉ đạo – kiểm tra). Với vai trò bảo đảm quá trình quản lý diễn ra đúng định hướng, phát hiện và điều chỉnh kịp thời sai lệch. Ứng dụng trong quản lý giáo dục, kiểm tra chuyên ngành giúp đánh giá việc tuân thủ chính sách, pháp luật và chuẩn mực nghề nghiệp.
– Tiếp cận từ quản lý giáo dục: Đặc thù của giáo dục là lĩnh vực có tính nhân văn, chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố xã hội, chính trị, kinh tế. Kiểm tra chuyên ngành trong giáo dục không chỉ dừng ở phát hiện sai phạm mà còn có tính chất hỗ trợ, tư vấn, định hướng cho các cơ sở giáo dục. Mối quan hệ với các chức năng khác của quản lý giáo dục như kiểm tra gắn chặt với hoạch định (cung cấp thông tin), tổ chức (đảm bảo phân công hợp lý), và chỉ đạo (giúp lãnh đạo đưa ra quyết định điều chỉnh chính xác, kịp thời).
– Hoạt động kiểm tra chuyên ngành dưới tiếp cận quản lý giáo dục là quá trình cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền tổ chức xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật, chính sách và quy định chuyên môn trong lĩnh vực giáo dục tại các cơ sở giáo dục nhằm phát hiện, xử lý sai phạm và cung cấp thông tin phản hồi làm căn cứ để nhà quản lý đưa ra các quyết định kịp thời, chính xác đồng thời hỗ trợ, tư vấn và định hướng phát triển, qua đó đảm bảo kỷ cương, nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý giáo dục. Trong hệ thống quản lý giáo dục, kiểm tra chuyên ngành là một hoạt động quản lý đặc thù, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm giám sát việc tuân thủ pháp luật, chính sách, quy định chuyên môn trong lĩnh vực giáo dục. Nếu như các hoạt động thanh tra hay kiểm định tập trung vào việc đánh giá tổng thể, thì kiểm tra chuyên ngành chú trọng vào từng mảng, từng nội dung chuyên môn cụ thể, chẳng hạn như chương trình, chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo, việc thực hiện quy định pháp luật của cơ sở giáo dục…
+ Chủ thể quản lý hoạt động kiểm tra chuyên ngành tại các cơ sở giáo dục hiện nay: Ở cấp Trung ương có Bộ GD&ĐT. Ở cấp địa phương có UBND tỉnh, Sở GD&ĐT. Ở cấp cơ sở có Ban giám hiệu, hội đồng trường, các phòng ban chức năng trong cơ sở giáo dục (thực hiện tự kiểm tra, tự giám sát).
+ Đối tượng và nội dung quản lý hoạt động kiểm tra chuyên ngành tại các cơ sở giáo dục hiện nay là những yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến quá trình tổ chức và vận hành của các cơ sở giáo dục, chịu sự giám sát nhằm bảo đảm tuân thủ pháp luật, quy chế và nâng cao chất lượng đào tạo. Bao gồm các cơ sở giáo dục như trường mầm non, phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học và các cơ sở giáo dục khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc chấp hành quy định của pháp luật, điều lệ trường học, quy chế chuyên môn, quản lý tài chính, cơ sở vật chất và việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Hoạt động giáo dục và đào tạo gồm chương trình, kế hoạch đào tạo, nội dung giảng dạy, phương pháp sư phạm, đánh giá kết quả học tập của người học. Việc tổ chức tuyển sinh, thi cử, công nhận và cấp văn bằng, chứng chỉ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục từ việc đáp ứng các chuẩn nghề nghiệp, tiêu chuẩn chức danh; thực hiện nghĩa vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, quản lý người học; việc hưởng và thực hiện chế độ, chính sách của Nhà nước. Đối với người học cần quan tâm đến quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người học; việc tham gia và chấp hành quy chế đào tạo, rèn luyện; mức độ thụ hưởng quyền lợi về chất lượng dịch vụ giáo dục, học bổng, chính sách hỗ trợ… Các hoạt động bảo đảm và kiểm định chất lượng như công tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục; các điều kiện bảo đảm chất lượng, cơ sở vật chất, thư viện, thiết bị dạy học, nguồn lực tài chính. Đây là những thành tố then chốt phản ánh đầy đủ sự vận hành của hệ thống giáo dục, đồng thời cũng là căn cứ để cơ quan quản lý nhà nước đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật và chất lượng đào tạo.
Như vậy, kiểm tra chuyên ngành dưới tiếp cận quản lý giáo dục cần được hiểu thấu đáo thông qua hoạt động kiểm tra chuyên ngành tại các cơ sở giáo dục hiện nay. Quản lý hoạt động kiểm tra chuyên ngành không chỉ dừng lại ở việc tiến hành các cuộc kiểm tra, mà còn bao gồm cả việc lập kế hoạch, giám sát, đánh giá và điều chỉnh, nhằm bảo đảm cho hoạt động kiểm tra thực sự trở thành công cụ quản lý hữu hiệu, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống giáo dục quốc dân.
2.2. Nguyên tắc kiểm tra chuyên ngành
Hiện nay, nguyên tắc hoạt động kiểm tra chuyên ngành được Chính phủ quy định tại Điều 4 của Nghị định số 217/2025/NĐ-CP, như sau:
“(1) Tuân theo pháp luật, khách quan, kịp thời, chính xác. (2) Bảo đảm không chồng chéo, trùng lặp với hoạt động thanh tra, hoạt động kiểm toán nhà nước của cơ quan có thẩm quyền; không chồng chéo, trùng lặp với hoạt động kiểm tra chuyên ngành của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra chuyên ngành khác. (3) Bảo đảm sự phối hợp với các cơ quan liên quan; không gây cản trở, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng kiểm tra chuyên ngành. (4) Thẩm quyền kiểm tra được xác định trên cơ sở nguyên tắc của hoạt động quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và theo địa bàn, lãnh thổ. (5) Ưu tiên việc tiến hành kiểm tra trực tuyến, từ xa dựa trên dữ liệu điện tử. (6) Miễn kiểm tra thực tế đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tuân thủ tốt quy định của pháp luật”.
Như vậy, Nghị định số 217/2025/NĐ-CP đã cụ thể hóa những nguyên tắc hoạt động kiểm tra chuyên ngành phù với các quy định của Hiến pháp, các quy định của luật chuyên ngành trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Việc tuân thủ khung pháp lý và các nguyên tắc kiểm tra không chỉ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của kiểm tra chuyên ngành, mà còn bảo đảm hoạt động kiểm tra thực sự trở thành công cụ quản lý giáo dục hiện đại, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện hoạt động kiểm tra chuyên ngành từ tiếp cận quản lý giáo dục
Làm thế nào để bảo đảm tính khả thi và đồng bộ của nghị định trong hệ thống pháp luật. Tránh tình trạng hình thức hóa kiểm tra. Bảo đảm cân bằng giữa kiểm tra và hỗ trợ cơ sở giáo dục.
Vấn đề về nhận thức: Đây là lần đầu tiên có một nghị định riêng điều chỉnh hoạt động kiểm tra chuyên ngành tạo khung pháp lý chung đối với các lĩnh vực trong đó có chuyên ngành quản lý giáo dục nên nhiều cán bộ quản lý, thanh tra, kiểm tra ở các cấp còn thiếu thông tin, chưa kịp nắm bắt nội dung mới. Một số cơ sở giáo dục chưa nhận thức đầy đủ rằng kiểm tra chuyên ngành là hoạt động pháp lý có tính bắt buộc và thường xuyên, không chỉ dừng lại ở hình thức “giám sát hành chính” như trước.
Vấn đề về bộ máy tổ chức và nhân lực: Đối với hoạt động kiểm tra chuyên ngành yêu cầu phải phân định rõ trách nhiệm giữa Bộ, Sở, các Cục, Vụ thuộc Bộ, Trưởng phòng chuyên môn thuộc Sở, UBND các cấp,.. trong kiểm tra chuyên ngành. Tuy nhiên, thực tế hiện nay vẫn còn chồng chéo chức năng, dễ dẫn đến trùng lặp. Đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra chưa đủ về số lượng và hạn chế về chất lượng; nhiều cán bộ chưa qua đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm tra, dẫn đến khó khăn khi áp dụng quy định mới.
Vấn đề về cơ sở pháp lý liên quan: Hoạt động kiểm tra chuyên ngành được quy định trong Nghị định 217/2025/NĐ-CP là bước tiến quan trọng, song để triển khai hiệu quả, cần phải ban hành thêm thông tư hướng dẫn, quy trình mẫu, tiêu chí kiểm tra cụ thể. Hiện vẫn còn tình trạng chồng chéo với hoạt động thanh tra, kiểm toán, giám sát chuyên môn của các cơ quan khác, đòi hỏi sự phối hợp, phân định rõ ràng để tránh gây phiền hà cho cơ sở giáo dục.
Vấn đề về nguồn lực và điều kiện bảo đảm: Hoạt động kiểm tra chuyên ngành đặt ra yêu cầu phải ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu kiểm tra. Tuy nhiên, hạ tầng CNTT ở nhiều địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, còn hạn chế. Kinh phí dành cho hoạt động kiểm tra chuyên ngành chưa được bố trí riêng, ổn định, khiến một số địa phương khó triển khai đầy đủ kế hoạch kiểm tra theo quy định.
Vấn đề về công khai, minh bạch và giám sát xã hội: Hoạt động kiểm tra chuyên ngành yêu cầu công khai hóa kết quả kiểm tra, nhưng thói quen hành chính cũ ở nhiều nơi vẫn nặng tính “nội bộ”, chưa minh bạch. Cơ chế để các tổ chức xã hội, phụ huynh, người học tham gia giám sát còn thiếu, dẫn đến nguy cơ “hình thức hóa” kết quả kiểm tra.
Vấn đề về áp lực đối với cơ sở giáo dục: Các trường, đặc biệt là trường tư thục và cơ sở ngoài công lập, lo ngại rằng việc triển khai Nghị định có thể làm gia tăng tần suất kiểm tra, gây áp lực về thủ tục hành chính. Nếu thiếu sự điều phối và kế hoạch hợp lý, hoạt động kiểm tra có thể ảnh hưởng đến thời gian, nguồn lực giảng dạy, học tập.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra chuyên ngành từ tiếp cận quản lý giáo dục
– Nâng cao nhận thức: thống nhất quan điểm chỉ đạo, cần tổ chức các hội nghị, tập huấn, hội thảo để quán triệt nội dung Nghị định 217/2025/NĐ-CP đến toàn ngành giáo dục, từ cán bộ quản lý ở Bộ, Sở, các Cục, Vụ thuộc Bộ, Trưởng phòng chuyên môn thuộc Sở, UBND các cấp đến hiệu trưởng, giảng viên, giáo viên. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật qua tài liệu hướng dẫn, cẩm nang điện tử, chuyên trang trên website của Bộ GD&ĐT, giúp các cơ sở giáo dục hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong hoạt động kiểm tra.
– Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và quy trình kiểm tra: sớm ban hành Thông tư hướng dẫn chi tiết, bảo đảm thống nhất với Luật Thanh tra, Luật Giáo dục. Bộ GD&ĐT cần ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định, trong đó quy định rõ: phạm vi, nội dung, quy trình, biểu mẫu, thẩm quyền kiểm tra. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chuẩn hóa để bảo đảm tính khách quan, hạn chế tình trạng kiểm tra tùy tiện hoặc cảm tính. Hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành giữa giáo dục, tài chính, lao động… tránh chồng chéo và giảm áp lực cho cơ sở giáo dục hiện nay.
– Nâng cao năng lực cán bộ kiểm tra: thông qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra chuyên ngành, hướng tới sự thành thạo về kỹ năng kiểm tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục. Theo đó các cơ sở giáo dục nên đề xuất tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về pháp luật, kỹ năng kiểm tra, nghiệp vụ xử lý tình huống cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Hình thành nhóm chuyên gia kiểm tra chuyên ngành theo từng lĩnh vực (tài chính, chương trình đào tạo, chất lượng giảng dạy, an toàn trường học) để nâng cao tính chuyên nghiệp.
– Bảo đảm nguồn lực và điều kiện triển khai: chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành: xây dựng cơ sở dữ liệu kiểm tra chuyên ngành, kết nối với hệ thống quản lý giáo dục. Khuyến khích cán bộ ứng dụng CNTT, phân tích dữ liệu trong quá trình kiểm tra để tiết kiệm thời gian và tăng độ chính xác. Nhà nước cần bố trí kinh phí riêng cho hoạt động kiểm tra chuyên ngành, đặc biệt cho các địa phương khó khăn. Tăng cường đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin: xây dựng phần mềm quản lý kiểm tra, cơ sở dữ liệu dùng chung, kết nối từ Bộ đến Sở và các Cục, Vụ thuộc Bộ, Trưởng phòng chuyên môn thuộc Sở, UBND các cấp. Trang bị các phương tiện hỗ trợ hiện đại (máy tính bảng, phần mềm chấm điểm, lưu trữ dữ liệu điện tử) cho cán bộ kiểm tra.
– Tăng cường phối hợp liên ngành: thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin giữa thanh tra, kiểm toán, kiểm tra nội bộ. Phát huy vai trò giám sát xã hội, cần có sự tham gia của tổ chức nghề nghiệp, hiệp hội, báo chí, người học. Đẩy mạnh công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Thực hiện công khai kết quả kiểm tra trên cổng thông tin điện tử của Bộ, Sở GD&ĐT… để xã hội, phụ huynh, người học giám sát. Áp dụng cơ chế phản hồi hai chiều, cơ sở giáo dục có quyền kiến nghị, giải trình nếu thấy kết luận kiểm tra chưa phù hợp. Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp, đoàn thể trong giám sát quá trình kiểm tra tại các cơ sở giáo dục.
– Đổi mới phương thức kiểm tra theo hướng hiện đại: giảm áp lực, tạo điều kiện cho cơ sở giáo dục. Ứng dụng chuyển đổi số trong toàn bộ quy trình, từ lập kế hoạch, triển khai, thu thập chứng cứ đến kết luận. Phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm tra chuyên ngành quản lý giáo dục, kết nối với dữ liệu thanh tra, kiểm toán để dùng chung, tránh lặp lại. Áp dụng phân tích dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) để sàng lọc, cảnh báo nguy cơ vi phạm, từ đó định hướng nội dung kiểm tra trọng tâm, trọng điểm. Thực hiện lập kế hoạch kiểm tra hằng năm công khai, minh bạch, tránh kiểm tra dồn dập hoặc trùng lặp. Kết hợp giữa kiểm tra trực tiếp và giám sát trực tuyến qua hệ thống dữ liệu, giảm thời gian làm việc tại cơ sở. Gắn kiểm tra với hỗ trợ, tư vấn, hướng dẫn thay vì chỉ tập trung xử lý vi phạm, nhằm giúp cơ sở giáo dục hoàn thiện hoạt động quản lý.
5. Kết luận
Việc Chính phủ lần đầu ban hành nghị định về kiểm tra chuyên ngành là bước tiến quan trọng, tạo hành lang pháp lý thống nhất, minh bạch và hiệu quả hơn cho hoạt động quản lý. Mặc dù hiện nay hoạt động kiểm tra chưa được luật hóa nhưng có Nghị định cũng đã một bước tiến đáng ghi nhận. Trong lĩnh vực giáo dục, đây là cơ sở nền tảng để nâng cao chất lượng, kỷ cương và hiệu lực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, để nghị định đi vào cuộc sống, cần sự nỗ lực đồng bộ từ cơ quan quản lý, cơ sở giáo dục, cán bộ thực thi và sự giám sát của toàn xã hội.
Hoạt động kiểm tra chuyên ngành dưới tiếp cận quản lý giáo dục mang nét đặc thù ngành. Thông qua việc tổ chức và tiến hành hoạt động kiểm tra chuyên ngành, nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, duy trì kỷ cương, tăng cường trách nhiệm giải trình và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Thực chất kiểm tra chuyên ngành là một chức năng quản lý thiết yếu, ngoài việc xem xét, xử lý những sai phạm còn giúp nhà quản lý phát hiện những hạn chế, bất cập trong cơ chế quản lý, từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh kịp thời về chính sách, cơ chế và quy trình tổ chức thực hiện tại các cơ sở giáo dục hiện nay. Đây cũng là kênh thông tin quan trọng hỗ trợ việc hoạch định chiến lược và thực thi chính sách công trong lĩnh vực giáo dục, bảo đảm tính minh bạch, công bằng và hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hà Nội.
- Quốc hội (2019), Luật Giáo dục số 43/2019/QH14, Hà Nội.
- Quốc hội (2025), Luật Thanh tra số 84/2025/QH15, Hà Nội.
- Chính phủ (2025), Nghị định số 216/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra, Hà Nội.
- Chính phủ (2025), Nghị định số 217/2025/NĐ-CP về hoạt động kiểm tra chuyên ngành, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Mỹ Lộc & Nguyễn Quốc Chí (2018), Giáo trình Quản lý giáo dục, Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm.
- Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục, Hà Nội.
TS. Triệu Thị Thu, Trường Cán bộ Thanh tra