Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật số 88/2025/QH15, Nghị định 189/2025/NĐ-CP, Nghị định 190/2025/NĐ-CP, Nghị định 68/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 118/2021/NĐ-CP hướng dẫn Luật Xử lý vi phạm hành chính đã có nhiều nội dung mới, tạo ra sự đồng bộ với Luật thanh tra 2025 và văn bản quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, vẫn còn có một số nội dung chưa hợp lý, chưa thỏa đáng về thẩm quyền của thanh tra trong hoạt động thanh tra, kiểm tra.

- Đặt vấn đề
Tại khoản 1 Điều 2 của Luật thanh tra 2025 quy định: “Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị xử lý của cơ quan thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”. Theo đó, khi phát hiện vi phạm nói chung và vi phạm hành chính (VPHC) nói riêng trong quá trình tiến hành thanh tra, người tiến hành thanh tra phải áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền được quy định tại Luật thanh tra và quy định khác của pháp luật có liên quan để chấm dứt hành vi vi phạm, kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; trong trường hợp vi phạm của đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không thuộc thẩm quyền xử lý của mình thì Trưởng đoàn thanh tra kiến nghị người ra quyết định thanh tra hoặc Thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý. Tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi việc xác định đúng và đầy đủ thẩm quyền xử phạt VPHC của cơ quan thanh tra, người tiến hành thanh tra là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý trong quản lý nhà nước. Bài viết tập trung phân tích những bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.
Luật thanh tra năm 2025 và văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động thanh tra, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra của cơ quan thanh tra trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Chánh Thanh tra của cơ quan thanh tra Cơ yếu; Thủ trưởng cơ quan Thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; Người ra quyết định thanh tra; Trưởng đoàn thanh tra; Thành viên Đoàn thanh tra là thanh tra viên đều có nhiệm vụ, quyền hạn: “Xử phạt vi phạm hành chính hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”[3].
Tại điểm d, đ, e khoản 1 Điều 37a Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025) và khoản 4 Điều 1 của Luật số 88/2025/QH15 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 (gọi tắt là Luật số 88/2025/QH15) và Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP ngày 01/07/2025 hướng dẫn Luật Xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 (gọi tắt là Nghị định 189/2025/NĐ-CP), quy định có 5 chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, như sau:
– Thanh tra viên trong thời hạn thanh tra của đoàn thanh tra do Chánh Thanh tra của các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Quốc phòng, Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thanh tra viên Ban Cơ yếu Chính phủ, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam, Cục Hàng không Việt Nam, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
– Trưởng đoàn Thanh tra trong thời hạn thanh tra do Chánh Thanh tra của các cơ quan thanh tra thành lập: Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam, Cục Hàng không Việt Nam, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước khu vực, Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Công an cấp tỉnh, Ban Cơ yếu Chính phủ; Trưởng đoàn thanh tra cấp quân khu, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội;
– Chánh Thanh tra Cơ yếu; Chánh Thanh tra Cục An toàn bức xạ và hạt nhân; Chánh Thanh tra Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam; Chánh Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam; Chánh Thanh tra Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; Chánh Thanh tra quốc phòng quân khu; Chánh Thanh tra quốc phòng Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; Chánh Thanh tra Ngân hàng Nhà nước khu vực; Chánh Thanh tra Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng; Chánh Thanh tra Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Chánh Thanh tra Công an cấp tỉnh;
– Chánh Thanh tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Quốc phòng, Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
– Trưởng đoàn thanh tra trong thời hạn thanh tra do Chánh Thanh tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Quốc phòng, Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành lập.
Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính và văn bản hướng dẫn thi hành, Thanh tra viên; Trưởng đoàn Thanh tra chỉ có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính thuộc phạm vi, nội dung cuộc thanh tra chuyên ngành trong thời hạn thanh tra. Trường hợp hết thời hạn thanh tra theo quy định của pháp luật mà chưa ra quyết định xử phạt, thì phải chuyển vụ vi phạm đến người có thẩm quyền xử phạt (thuộc về Chánh Thanh tra cấp có thẩm quyền xử phạt đối với vụ việc hoặc Thủ trưởng tổ chức thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được giao chức năng, nhiệm vụ kiểm tra trong phạm vi quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37a của Luật Xử lý vi phạm hành chính hoặc Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra vi phạm hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm theo Khoản 3[4] Điều 11 Nghị định 190/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 11 Nghị định 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Với quy định nêu trên đã phân cấp thẩm quyền xử phạt tiền khác nhau cho năm chức danh tương ứng tỷ lệ phàn trăm tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Riêng đối với chức danh Thanh tra viên không phân biệt của cơ quan thanh tra nào đều được quyền xử phạt tiền đến 10% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Chỉ có Chánh Thanh tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Trưởng đoàn thanh tra do Chánh Thanh tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ mới được quyền xử phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Các chức danh còn lại tại Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP là Trưởng đoàn thanh tra, Chánh Thanh tra được quyền xử phạt tiền đến 50% hoặc 80% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính tùy từng loại cơ quan thanh tra.
Như vậy, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật số 88/2025/QH15, Nghị định 189/2025/NĐ-CP, Nghị định 190/2025/NĐ-CP, Nghị định 68/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 118/2021/NĐ-CP hướng dẫn Luật Xử lý vi phạm hành chính đã có nhiều nội dung mới, tạo ra sự đồng bộ với Luật thanh tra 2025 và văn bản quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, vẫn còn có một số nội dung chưa hợp lý, chưa thỏa đáng về thẩm quyền của thanh tra trong hoạt động thanh tra, kiểm tra.
2. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về thẩm quyền của thanh tra trong xử phạt vi phạm hành chính
Thứ nhất, có sự bất hợp lý trong phân quyền xử phạt tiền đối với chức danh Thanh tra viên tại Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP.
Theo đó, chức danh thanh tra viên chỉ được xử phạt tối đa 10% mức tiền phạt tối đa, trong khi đó Trưởng đoàn thanh tra có thể xử phạt đến 50%, và Chánh Thanh tra có thể đến 80% hoặc 100% tùy từng loại cơ quan thanh tra. Dù mang tính phân cấp, nhưng trong thực tế, có những vụ việc vi phạm nhỏ được phát hiện bởi thanh tra viên nhưng không thể xử lý dứt điểm do vượt thẩm quyền, phải báo cáo lên cấp trên hoặc chuyển hồ sơ vụ việc đến người cấp có thẩm quyền để ra quyết định xử phạt, gây chậm trễ, kéo dài quá trình xử lý và có những vụ việc hết thời hạn, thời hiệu xử lí. Trong khi đó, thanh tra viên là công chức có nghiệp vụ thanh tra chuyên sâu trong các lĩnh vực, thậm chí trước khi được bổ nhiệm thanh tra viên thì đã có kinh nghiệm chuyên môn sâu trong lĩnh vực quản lí nhà nước. Do vậy, thanh tra viên có đủ điều kiện để có thể trao thẩm quyền xử phạt tiền ở mức cao hơn so với quy định hiện nay.
Thứ hai, quy định chưa rõ Chánh Thanh tra tỉnh vừa là người ban hành quyết định thanh tra vừa là Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37a của Luật số 88/2025/QH15 hay không?
Trước tiên, tại Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP nêu trên không quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chánh thanh tra tỉnh.
Mặc dù, theo quy định tại Điều 16, Điều 17 của Luật thanh tra năm 2025, Chánh Thanh tra tỉnh có thẩm quyền ban hành Quyết định thanh tra đối với vụ việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đây là các cuộc thanh tra chuyên ngành của Thanh tra sở trước đây nay Thanh tra tỉnh tiếp nhận chức năng, nhiệm vụ này, cũng theo quy định tại Điều 38 của Luật thanh tra năm 2025 thì người ra quyết định thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn kiến nghị xử phạt hoặc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, tại Điều 3 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP, quy định chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý ngành, lĩnh vực, địa bàn. “Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; …”[5], Thanh tra tỉnh không có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý ngành, lĩnh vực về nghiệp và môi trường; Khoa học và Công nghệ; văn hóa, thể thao và du lịch; quản lý nhà nước của xây dựng; …..Có nghĩa là Chánh Thanh tra tỉnh không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ngay cả khi là người ban hành Quyết định thanh tra, ban hành kết luận để xem xét việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Trong khi đó, cuộc thanh tra này là một hình thức để phát hiện vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước như Thanh tra sở trước đây, những người tiến hành cuộc thanh tra này trước đây hoàn toàn có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính thuộc phạm vi, nội dung cuộc thanh tra trong thời hạn thanh tra. Như vậy, áp dụng quy định tại Điều 3 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP sẽ không thỏa đáng với nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra tỉnh theo quy định của Luật thanh tra năm 2025. Dẫn đến việc Thanh tra tỉnh tiếp nhận chức năng, nhiệm vụ thanh tra của Thanh tra sở nhưng lại không bao quát hết nhiệm vụ, quyền hạn Thanh tra sở trước đây, trong đó có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính thuộc phạm vi, nội dung cuộc thanh tra. Bởi lẽ đó mà tại khoản 1 Điều 16, Luật thanh tra năm 2025 cũng không còn ghi nhận nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra tỉnh được xử phạt vi phạm hành chính hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính như Luật thanh tra năm 2022.
Thứ ba, quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chánh thanh tra tại Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP chưa bao quát cả trong hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Tại Nghị định 189/2025/NĐ-CP không có quy định trực tiếp thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chánh thanh tra khi tiến hành cuộc thanh tra hay không. Tuy nhiên tại khoản 1, khoản 3 Điều 11 Nghị định 190/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 11 Nghị định 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (gọi tắt là Nghị định 190/2025/NĐ-CP), quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, như sau:
“1. Trưởng đoàn thanh tra, Trưởng đoàn kiểm tra có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính thuộc phạm vi, nội dung cuộc thanh tra, kiểm tra trong thời hạn thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hết thời hạn thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật mà chưa ra quyết định xử phạt, thì phải chuyển vụ vi phạm đến người có thẩm quyền xử phạt.
….
- Thẩm quyền đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới của Trưởng đoàn thanh tra, Trưởng đoàn kiểm tra trong trường hợp đã hết thời hạn thanh tra, kiểm tra được xác định như sau:
- a) Nếu Trưởng đoàn thanh tra, Trưởng đoàn kiểm tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là người có thẩm quyền xử phạt theo quy định đối với vụ việc thì thẩm quyền vẫn thuộc về người đó;
- b) Nếu người đã ra quyết định thanh tra, kiểm tra là người có thẩm quyền xử phạt theo quy định đối với vụ việc thì thẩm quyền thuộc về người đó;
- c) Nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì thẩm quyền thuộc về Chánh Thanh tra cấp có thẩm quyền xử phạt đối với vụ việc hoặc Thủ trưởng tổ chức thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được giao chức năng, nhiệm vụ kiểm tra trong phạm vi quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37a của Luật Xử lý vi phạm hành chính hoặc Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra vi phạm hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm”.
Với quy định này cho thấy Chánh Thanh tra (Chánh Thanh tra Cơ yếu; Chánh Thanh tra Cục An toàn bức xạ và hạt nhân; Chánh Thanh tra Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam; Chánh Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam; Chánh Thanh tra Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; Chánh Thanh tra quốc phòng quân khu; Chánh Thanh tra quốc phòng Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; Chánh Thanh tra Ngân hàng Nhà nước khu vực; Chánh Thanh tra Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng; Chánh Thanh tra Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Chánh Thanh tra Công an cấp tỉnh; Chánh Thanh tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Quốc phòng, Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) là chức danh có thẩm quyền xử phạt không chỉ khi tiến hành một cuộc thanh tra mà ngay cả cuộc kiểm tra. Như vậy, tiêu đề của Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP chưa tương thích với Điều 11 Nghị định 190/2025/NĐ-CP.
3. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền của thanh tra trong xử phạt vi phạm hành chính
Với những cải cách tổ chức, hệ thống cơ quan thanh tra sẽ tối giản, chỉ còn Thanh tra Chính phủ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 3 cơ quan thanh tra (Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an và Ngân hàng Nhà nước) và Cơ quan thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Mặt khác, Luật thanh tra không phân định thanh tra hành chính hay thanh tra chuyên ngành; không tổ chức hoạt động thanh tra của phần đông các bộ ngành và tất cả các Sở thì vai trò, trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rất lớn. Do vậy, cần thiết lập cơ chế phát hiện vi phạm hành chính và xử lí vi phạm hành chính ngay trong hệ thống cơ quan thanh tra phù hợp với mục đích của hoạt động thanh tra là phòng ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật. Đây cũng chính là các nguyên tắc chủ đạo trong xử phạt vi phạm hành chính, phát hiện, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh, nhanh chóng mọi vi phạm hành chính là một đòi hỏi khách quan và phải thực hiện một cách triệt để. Việc chậm trễ phát hiện, ngăn chặn hoặc chậm xử lý hành vi vi phạm hành chính sẽ dẫn đến khả năng hành vi vi phạm gây ra hậu quả lớn hơn, nghiêm trọng hơn. Vì vậy, tính kịp thời trong việc phát hiện, ngăn chặn vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng cũng đặt ra những yêu cầu khắt khe về thời hạn và ràng buộc trách nhiệm của người có thẩm quyền khi xem xét, ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Như vậy, cần xem xét sửa đổi thẩm quyền của Thanh tra, như sau:
Thứ nhất, xem xét nâng mức phạt tiền của Thanh tra viên tại Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP.
Để giúp giải quyết nhanh những vụ vi phạm đơn giản, giảm tải cho cấp trên và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, cần xem xét nâng mức phạt tiền của Thanh tra viên lên đến 20% hoặc 30% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Thứ hai, bổ sung người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là Chánh thanh tra tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính “mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, …việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng…”.
Khi Luật Thanh tra năm 2025 đã bổ sung một số nội dung cho phù hợp với việc sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra, trong đó tăng cường mối quan hệ công tác giữa Thanh tra tỉnh với các Sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp xã; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, không để có khoảng trống pháp luật khi sắp xếp hệ thống các cơ quan thanh tra, Thanh tra tỉnh tiếp nhận thêm chức năng, nhiệm vụ thanh tra của Thanh tra cấp huyện, Thanh tra sở. Do đó, Bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra tỉnh trong Thanh tra việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đây là các cuộc thanh tra chuyên ngành thuộc thẩm quyền của Thanh tra sở trước đây); Bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra tỉnh trong việc đề nghị Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cử người có chuyên môn phù hợp tham gia Đoàn thanh tra của Thanh tra tỉnh khi cần thiết (việc bổ sung này đáp ứng chuyên môn, nghiệp vụ các cuộc thanh tra chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực). Trong khi đó, Luật Thanh tra năm 2025 bỏ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chánh Thanh tra tỉnh được quy định trong Luật Thanh tra năm 2022 và Chánh Thanh tra tỉnh chỉ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra để kiến nghị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Tức là Chánh Thanh tra tỉnh phải chuyển vụ việc sang cơ quan khác có thẩm quyền xử phạt, gây chậm trễ, không kịp thời để cấp có thẩm quyền xử lí vì hết thời hạn lập biên bản hoặc hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, làm giảm tính răn đe, nghiêm minh trong xử phạt vi phạm hành chính, gây lãng phí nguồn lực của thanh tra. Trong khi đó, Chánh Thanh tra tỉnh là người có vị trí, năng lực và điều kiện đáp ứng yêu cầu xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, cần trao thêm nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra tỉnh có thẩm quyền xử phạt với tư cách là Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và với tư cách là chức danh Chánh Thanh tra mà không làm phát sinh thêm bộ máy mới mà tận dụng ngay chính lực lượng hiện có sau khi sáp nhập.
Thứ ba, bổ sung người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là Chánh thanh tra trong cả trong hoạt động thanh tra, kiểm tra tại Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP tương thích với quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thanh tra, kiểm tra hướng dẫn tại Điều 11 của Nghị định 190/2025/NĐ-CP.
Trước tiên, Luật thanh tra năm 2025 đã bổ sung quy định về phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, cụ thể: Cơ quan thanh tra, cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm phối hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Khi tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra, trường hợp có có sự chồng chéo, trùng lặp thì cơ quan tiến hành thanh tra và cơ quan thực hiện kiểm tra phối hợp để xử lý; trường hợp không thống nhất được thì cơ quan thanh tra tiến hành thanh tra. Qua công tác kiểm tra, trường hợp cần thanh tra làm rõ dấu hiệu vi phạm pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan thanh tra có thẩm quyền tiến hành thanh tra.
Như vậy, ngay tại Cơ quan thanh tra trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thanh tra Cơ yếu; Cơ quan thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Thanh tra Cục An toàn bức xạ và hạt nhân; Thanh tra Cục Hàng hải Việt Nam; Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam; Thanh tra Ủy ban Chứng khoán nhà nước) để bao quát toàn bộ hoạt động thanh tra như trước đây, đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước, sẽ thực hiện phần cơ bản hoạt động thanh tra và một phần còn lại chuyển thành hoạt động kiểm tra chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ tại các cơ quan thanh tra có tính đặc thù này. Khi đó, người đứng đầu đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong đó có Chánh thanh tra có thẩm quyền kiểm tra chuyên ngành đối với tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phân cấp, uỷ quyền theo quy định tại Điều 6 và Điều 7 của Nghị định 217/2025/NĐ-CP ngày 5/8/2025 quy định về hoạt động kiểm tra chuyên ngành.
Chính vì vậy, việc quy định mở rộng thẩm quyền kiểm tra chuyên ngành cho người đứng đầu đơn vị, trong đó có Chánh thanh tra của Cơ quan thanh tra trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thanh tra Cơ yếu; Cơ quan thanh tra được thành lập theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Thanh tra Cục An toàn bức xạ và hạt nhân; Thanh tra Cục Hàng hải Việt Nam; Thanh tra Cục Hàng không Việt Nam; Thanh tra Ủy ban Chứng khoán nhà nước) là phù hợp với tinh thần phân cấp, phân quyền. Việc bổ sung người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là Chánh thanh tra trong cả trong hoạt động thanh tra, kiểm tra tại Điều 7 của Nghị định 189/2025/NĐ-CP sẽ tạo ra sự tương thích với quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thanh tra, kiểm tra được hướng dẫn tại Điều 11 của Nghị định 190/2025/NĐ-CP đảm bảo sự phân định rõ ràng và minh bạch về thẩm quyền xử phạt, tránh bỏ sót trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính.
Tóm lại, các chức danh trong hệ thống cơ quan thanh tra là người có chuyên môn sâu, bám sát thực tiễn, việc trao quyền xử phạt giúp các chức danh này phát hiện và xử lý ngay vi phạm, góp phần răn đe và phòng ngừa vi phạm. Khi hành vi vi phạm hành chính bị phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, sẽ tạo niềm tin vào pháp luật, tăng cường kỷ cương hành chính, và thúc đẩy sự tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức. Do vậy, cần quy định rõ thẩm quyền xử phạt của thanh tra được theo từng cấp, từng lĩnh vực, phù hợp với chủ trương phân cấp trong quản lý hành chính và tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Thay vì cần chờ kết quả trong chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành chính hoặc báo cáo cấp trên kiến nghị xử lí, các chức danh của cơ quan thanh tra có thể xử lý trực tiếp, giúp giảm thời gian và chi phí cho cả hệ thống./.
GVC, TS. Trần Thị Thúy
Ths. Nguyễn Thị Hạnh
[1] Phó Trưởng Khoa Nghiệp vụ Thanh tra, Trường Cán bộ Thanh tra
[2] Giảng viên Khoa Nghiệp vụ Thanh tra, Trường Cán bộ Thanh tra
[3] Xem khoản 4 Điều 11; điểm q khoản 1 Điều 38; điểm k khoản 1 Điều 39; điểm c khoản 1 Điều 40 – Luật thanh tra năm 2025 và khoản 4 Điều 5 – Nghị định số 216/2025/NĐ-CP ngày 5/8/2025 quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra.
[4] 3. Thẩm quyền đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới của Trưởng đoàn thanh tra, Trưởng đoàn kiểm tra trong trường hợp đã hết thời hạn thanh tra, kiểm tra được xác định như sau:
- a) Nếu Trưởng đoàn thanh tra, Trưởng đoàn kiểm tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là người có thẩm quyền xử phạt theo quy định đối với vụ việc thì thẩm quyền vẫn thuộc về người đó;
- c) Nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì thẩm quyền thuộc về Chánh Thanh tra cấp có thẩm quyền xử phạt đối với vụ việc hoặc Thủ trưởng tổ chức thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được giao chức năng, nhiệm vụ kiểm tra trong phạm vi quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37a của Luật Xử lý vi phạm hành chính hoặc Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra vi phạm hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.
[5] Điều 15 của Luật thanh tra năm 2025.