Chiều ngày 16/6, Bộ Nội vụ đã tổ chức họp báo cung cấp thông tin định kỳ và gặp mặt các phóng viên, biên tập viên nhân dịp kỷ niệm 98 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2023).

Phát biểu tại buổi họp báo, ông Vũ Đăng Minh, Chánh Văn phòng, Người phát ngôn Bộ Nội vụ cho biết, trong 6 tháng qua, về công tác xây dựng thể chế đã trình Chính phủ ban hành 4 nghị định, gồm: Nghị định số 29/2023/NĐ-CP ngày 3/6/2023 quy định về tinh giản biên chế; Nghị định số 6/2023/NĐ-CP ngày 21/2/2023 quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức; Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày 10/6/2023 quy định về về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; Nghị định số 24/2023/NĐ-CP ngày 14/5/2023 quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
Cùng với việc ban hành theo thẩm quyền 9 thông tư, hiện Bộ Nội vụ đang tích cực tập trung triển khai xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện Dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi). Đồng thời, đang tập trung xây dựng và hoàn thiện nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030; nghị quyết thí điểm của Quốc hội về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung…
Trả lời báo chí về chủ trương giảm số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ trong thời gian tới, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức, Biên chế Trần Văn Khiêm cho biết, theo nghị quyết của Quốc hội, cơ cấu Chính phủ khóa XV giữ nguyên như hiện nay.
Liên quan đến việc nghiên cứu Đề án Cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XVI tới, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức, Biên chế cho rằng đây là nhiệm vụ nằm trong chương trình hành động của Ban Cán sự Đảng Bộ Nội vụ. Tuy nhiên, theo ông Khiêm, việc xây dựng được Đề án Cơ cấu Chính phủ khóa XVI phải thực hiện trên cơ sở tổng kết 20 năm cơ cấu Chính phủ từ khóa XII đến khóa XV.
Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức, Biên chế Trần Văn Khiêm nhấn mạnh, việc này phải báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến trước khi Chính phủ trình Quốc hội theo quy định.
Thông tin thêm về vấn đề này, Chánh Văn phòng Bộ Nội vụ Vũ Đăng Minh cho biết, Chính phủ cần có kế hoạch thể chế hóa Nghị quyết 27 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Do đó, Bộ Nội vụ phải ban hành kế hoạch để triển khai Nghị quyết 27. Trong đó, đưa vào chương trình, mục tiêu để nghiên cứu xây dựng trong việc sắp xếp, tổ chức bộ máy bảo đảm nguyên tắc tinh giản, hiệu lực, hiệu quả, khắc phục chồng chéo…
Đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm vì động chạm đến cơ cấu các bộ, cơ quan ngang bộ, nên cần nghiên cứu rất kỹ lưỡng, ông Vũ Đăng Minh nhấn mạnh, đồng thời khẳng định Bộ Nội vụ chưa có đề xuất nào về sáp nhập bộ này hay bộ kia. Tương tự trước đây, bộ chưa có đề xuất sáp nhập tỉnh này với tỉnh kia mà chỉ đề xuất nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
Về nhiệm vụ trong quý III/2023, Người phát ngôn Bộ Nội vụ cho biết, bộ đang tập trung hoàn thiện 7 nghị định trình Chính phủ xem xét, ban hành bảo đảm tiến độ, chất lượng.
Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành quyết định phê duyệt Đề án Phát triển đội ngũ cán bộ công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới, quyết định ban hành kế hoạch về xây dựng Đề án Quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Ngoài ra, tổ chức hội nghị toàn quốc triển khai kết luận của Bộ Chính trị và nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, nghị quyết của Chính phủ về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030.
Đáng lưu ý, Bộ Nội vụ sẽ khẩn trương hoàn thiện trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nghị quyết về việc thực hiện quy định trình tự việc cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND. Đồng thời đẩy mạnh việc thẩm định trình cấp có thẩm quyền thành lập các đơn vị hành chính đô thị gắn với nâng cao chất lượng đô thị, thúc đẩy tốc độ đô thị hóa theo chủ trương của Đảng.
(Nguồn: thanhtra.com.vn)
Bộ Chính trị khẳng định, tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc; lấy lợi ích hợp pháp, chính đáng, sự hài lòng của người dân là trung tâm của mọi chủ trương, chính sách.

Theo thông cáo báo chí của Văn phòng Trung ương Đảng, ngày 16/6, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho ý kiến về Đề án Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Sau khi nghe Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo xây dựng đề án báo cáo nội dung đề án, Bộ Chính trị đã thảo luận, thống nhất đánh giá: Những năm qua, nhất là trong 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy.
Khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, miền từng bước thu hẹp; khu vực miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng khó khăn được quan tâm phát triển toàn diện.
Cơ chế phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao dân chủ đại diện từng bước hoàn thiện. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, các hội quần chúng tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt coi trọng, có chuyển biến tích cực, bảo đảm để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đã hình thành cơ chế động viên nhân dân tham gia và dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, qua đó tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ…
Bên cạnh những kết quả tích cực, Bộ Chính trị lưu ý, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Việc cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội, về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn kết quả còn thấp; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn; khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, miền, khu vực còn lớn.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” chưa cụ thể hoá kịp thời; quyền làm chủ của nhân dân, nhất là dân chủ ở cơ sở có lúc, có nơi còn vi phạm.
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và các hội quần chúng chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong tập hợp, đoàn kết, đại diện quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân; hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Tiếp tục phát huy đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh
Theo Bộ Chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là đường lối chiến lược của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, là quan hệ gắn bó bền chặt giữa Đảng với dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; là đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước, ngoài nước và nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.
Bộ Chính trị khẳng định, tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc; lấy lợi ích hợp pháp, chính đáng, sự hài lòng của người dân là trung tâm của mọi chủ trương, chính sách; bảo đảm sự công bằng, bình đẳng của mỗi người dân trong tiếp cận nguồn lực, cơ hội phát triển, đóng góp và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
Đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người, quyền công dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc; chăm lo bồi đắp, bảo vệ, gìn giữ khối đại đoàn kết là trách nhiệm của hệ thống chính trị và của mỗi người dân.
Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân để xây dựng đoàn kết của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt để tập hợp, đoàn kết, phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bộ Chính trị giao Ban Chỉ đạo Đề án tiếp thu ý kiến của Bộ Chính trị và các cơ quan liên quan để hoàn thiện đề án, báo cáo Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 10/2023).
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)

Ngày 16/6/2008, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, thực hiện Kế hoạch của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, nhận thức rõ vai trò đặc biệt của văn học, nghệ thuật trong đời sống xã hội. Để Nghị quyết số 23-NQ/TW tạo chuyển biến tích cực, tạo động lực đột phá cho văn hoá, nghệ thuật nhằm hướng đến chân – thiện – mỹ; phát huy những giá trị truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, trong năm qua Thanh tra Bộ đã chủ động triển khai, thực hiện các nhiệm vụ theo chức năng được giao, góp phần chung vào việc hoàn thành nhiệm vụ của Bộ.
Trong lĩnh vực quảng cáo, vi phạm chủ yếu là tình trạng nội dung quảng cáo sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ thiếu tính thẩm mỹ, trái với truyền thống văn hoá, chưa phù hợp với đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục và văn hoá Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận. Trong hoạt động lễ hội, là nơi tập trung đông người, thường xuất hiện các hoạt động cờ bạc trá hình, các điểm bán các loại sách, báo, ấn phẩm văn hóa có nội dung đồi trụy, tuyên truyền lối sống hưởng thụ vật chất, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Trong hoạt động dịch vụ văn hóa công cộng tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, vũ trường, dịch vụ trò chơi điện tử …là những nơi dễ phát sinh các tệ nạn xã hội, lưu giữ, phát tán những sản phẩm văn hóa độc hại.
Trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật, điện ảnh, công tác thanh tra, kiểm tra đã truy quét, thu hồi nhiều sản phẩm văn hóa có nội dung đồi truỵ, cổ động cho các cuộc biểu tình, khơi dậy lòng hận thù dân tộc, phim có nội dung bạo lực, không phù hợp với lối sống, văn hoá Việt Nam. Các đợt chỉ đạo kiểm tra, truy quét lớn trên toàn quốc đối với bộ đĩa hình Golden Asian DVD 2; kiểm tra, xử lý và thu hồi bộ băng, đĩa hình DVD ASIA 69; đĩa hình, băng, đĩa nhạc DVD có chủ đề ” Vườn hoa âm nhạc – tiếng cười 19″ và “Asian 68 – Sài Gòn nỗi nhớ”; kiểm tra, xử lý và thu hồi băng, đĩa phim “Trò chơi sinh tử” (The Hunger Games); chỉ đạo kiểm tra xử lý việc sử dụng những bài hát có nội dung vi phạm hoặc chưa được cấp phép tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke,…
Thực hiện Chỉ thị số 65/CT-BVHTTDL ngày 16/4/2012 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc chấn chỉnh hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, Thanh tra Bộ phối hợp Cục Nghệ thuật biểu diễn kiểm tra công tác quản lý đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn và hoạt động của một số doanh nghiệp biểu diễn nghệ thuật tại nhiều tỉnh, thành phố (Hải Dương, Thanh Hóa, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre, Hải Phòng, Thái Nguyên, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng, Lâm Đồng và Đắk Lắk). Phối hợp với Thanh tra một số Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch kiểm tra các Cuộc thi Hoa hậu, Liveshow của một số ca sỹ. Một số vụ việc điển hình được xử lý nghiêm như: Năm 2008, xử lý vi phạm đối với một số ca sỹ Thành phố Hồ Chí Minh tự do tham gia biểu diễn nghệ thuật ở nước ngoài theo đề nghị của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh; Năm 2016, xử lý vi phạm hành chính đối với Chương trình nghệ thuật “Trịnh Công Sơn 15 năm đường xa vạn dặm”.
Năm 2020, 2021, 2022 Thanh tra Bộ xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm trên các trang mạng xã hội. Số tiền nộp ngân sách nhà nước gần 1 tỷ đồng. Các hành vi vi phạm chủ yếu: Lưu hành bản ghi âm, ghi hình có hình ảnh, động tác, phương tiện biểu đạt, hình thức biểu diễn tác động tiêu cực đến đạo đức, sức khỏe cộng đồng và tâm lý xã hội, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc; Sản xuất MV sử dụng từ ngữ, hình ảnh, động tác biểu đạt, đạo cụ không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hoá Việt Nam; Lưu hành bản ghi âm có nội dung xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo,…
Bên cạnh việc trực tiếp thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm, Thanh tra Bộ đã ban hành văn bản chỉ đạo đối với lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch các tỉnh, thành phố, xác định việc kiểm tra văn hóa, chống sự xâm nhập, phát tán và lưu hành các sản phẩm văn hóa độc hại luôn là nhiệm vụ trọng tâm trong việc xây dựng kế hoạch công tác hàng năm. Trong thời gian qua, lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa đã chủ động và phối hợp liên ngành thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra văn hóa, truy quét, thu giữ, tiêu hủy số lượng lớn các sản phẩm văn hóa độc hại và xử phạt nghiêm các đối tượng vi phạm, góp phần hạn chế, ngăn chặn có hiệu quả sự xâm nhập và phát tán của các sản phẩm văn hóa độc hại vào nước ta.
Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm hành chính đối với các đơn vị, tổ chức, cá nhân đã góp phần không nhỏ vào việc ổn định, định hướng thẩm mỹ cho những người sáng tạo trong nghệ thuật nhằm đem lại một môi trường văn hoá lành mạnh đáp ứng nhu cầu hưởng thụ về nghệ thuật của Nhân dân. Đảm bảo thực hiện thành công các nhiệm vụ Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị./.
Ngày 15/6, tại Trụ sở Tiếp công dân (TCD) tỉnh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh Nguyễn Xuân Ký đã TCD định kỳ theo Quy định số 11 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của công dân.

Đối với vụ việc các hộ xã viên Hợp tác xã Cẩm Bình, TP Cẩm Phả đề nghị xây dựng phương án giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với diện tích 5.600m2 cho các hộ bị ảnh hưởng của dự án (D.A) 11,5ha khu Hòa Lạc, phường Cẩm Bình, TP Cẩm Phả; sau khi nghe đại diện công dân trình bày, ý kiến của các thành viên Hội đồng TCD tỉnh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh nêu rõ: Các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan phải thực hiện nghiêm bản án phúc thẩm số 16 ngày 17/1/2018 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội.
Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp UBND TP Cẩm Phả, Thanh tra tỉnh và các sở, ngành liên quan rà soát lại toàn bộ nội dung vụ việc, chỉ rõ các nội dung, hiệu lực của văn bản. Trên cơ sở đó, giải quyết vụ việc thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho hộ dân theo đúng quy định pháp luật và phải hoàn thành trong quý III/2023.
Đối với đề nghị của ông Nguyễn Đức Hân cùng đại diện một số hộ dân tại khu Tân Lập 3, phường Cẩm Thủy, TP Cẩm Phả đề nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) D.A khu đô thị mới phường Cẩm Thủy, TP Cẩm Phả do Công ty Cổ phần Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh làm chủ đầu tư, người đứng đầu Tỉnh ủy Quảng Ninh giao UBND TP Cẩm Phả phối hợp với các sở, ngành chức năng có liên quan và chủ đầu tư D.A cùng làm việc để xem xét việc thực hiện các nội dung theo kết luận thanh tra đã có; trong đó, xác định rõ nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, tuyệt đối không để thất thu, nếu chủ đầu tư cố tình chây ỳ, phải xử lý nghiêm theo quy định pháp luật.
Cùng với đó, làm rõ trách nhiệm của chủ đầu tư đối với việc thực hiện các quyết định của Nhà nước trong quá trình thực hiện D.A liên quan tới quy hoạch, môi trường, tiến độ đầu tư.

Đồng thời, phải chỉ rõ có hay không tình trạng cố tình kéo dài gây cản trở quá trình thực hiện quyền, nghĩa vụ các bên liên quan và ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, mỹ quan đô thị? Tiến hành rà soát kỹ nhu cầu thật sự của các hộ dân liên quan để đảm bảo việc giao đất đúng mục đích ổn định cuộc sống. Xem xét kỹ phần diện tích đất chưa giải phóng mặt bằng để đảm bảo không có lợi dụng để trục lợi trong D.A và không làm thất thoát ngân sách Nhà nước…
Lắng nghe ý kiến của các công dân: Chìu Sáy Cắm, Đặng Phúc Minh, Chìu Tiến Minh trú tại thôn Đồng Khoang (xã Đạp Thanh, huyện Ba Chẽ) đề nghị thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng, khai thác rừng ở xã Đạp Thanh thuộc D.A trồng rừng Việt Đức, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh giao Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì phối hợp cùng UBND các địa phương có rừng tự rà soát, đánh giá về trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với các D.A trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng từ các nguồn vốn khác nhau; trên cơ sở đó, đánh giá hiện trạng khách quan về đất, rừng, chất lượng rừng, công tác quản lý.
Thanh tra tỉnh được giao tiến hành thanh tra các D.A trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh nói chung, huyện Ba Chẽ nói riêng để làm rõ tính hiệu quả cũng như những vấn đề nảy sinh trong công tác quản lý, đặc biệt là việc liên quan đến giao đất, giao rừng cho các chủ thể liên quan.
Trên cơ sở kết luận thanh tra yêu cầu các địa phương xem xét giải quyết đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của công dân theo đúng quy định của pháp luật…
“Trong quá trình phát triển, tỉnh luôn quán triệt nguyên tắc đảm bảo cho những người dân sinh sống dưới tán rừng phải được hưởng lợi từ rừng, phát triển kinh tế rừng, vươn lên làm giàu chính đáng từ rừng nhưng cũng kiên quyết không để ai trục lợi từ rừng, đất rừng” – Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh nhấn mạnh.
Liên quan đến đề nghị của ông Ngô Minh Hải trú tại khu 4, phường Hà Tu, TP Hạ Long về việc xem xét cấp đất ở và nhà tình nghĩa cho ông theo chính sách người có công với cách mạng, ông Nguyễn Xuân Ký khẳng định: Những năm qua, tỉnh Quảng Ninh luôn quan tâm chăm lo đầy đủ chế độ chính sách cho người có công, gia đình người có công. Tinh thần chung của tỉnh là không để bất cứ người có công, gia đình người có công gặp khó khăn trong cuộc sống.
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh giao UBND TP Hạ Long làm rõ nội dung kiến nghị, khiếu nại phản ánh của ông Ngô Minh Hải; giải quyết vụ việc thấu tình, đạt lý.
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Xác định PCTN là nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo; trong những tháng đầu năm 2023 các cơ quan Trung ương đã ban hành nhiều chương trình, kế hoạch, kết luận, văn bản chỉ đạo trong công tác PCTN, TC. Để công tác PCTN, TC được triển khai đồng bộ từ Trung ương tới địa phương, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh đã nghiêm túc triển khai thực hiện.
Căn cứ Luật PCTN năm 2018, trong những năm qua Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã triển khai đầy đủ các chương trình, kế hoạch công tác PCTN. Tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương; sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Tỉnh ủy và UBND tỉnh tại kế hoạch công tác PCTN hàng năm. Các sở, ban, ngành tỉnh, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh đã ban hành, sửa đổi 151 văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch, văn bản triển khai tổ chức thực hiện công tác PCTN,TC trong 3 tháng đầu năm 2023.
Theo báo cáo tại quý gần nhất, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã tổ chức 15 cuộc tuyên truyền pháp luật về PCTN,TC đến trên 745 cán bộ, công chức, người lao động trên địa bàn tỉnh. Chuyển đổi vị trí công tác 11 người; 01 cơ quan, đơn vị được kiểm tra về công khai, minh bạch; tiến hành 15 cuộc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ; 03 cơ quan, đơn vị được kiểm tra về thực hiện quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn. Đáng chú ý, trong những tháng vừa qua, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã xử lý, chuyển cơ quan điều tra 01 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.
Bên cạnh đó, để triển khai kê khai, công khai bản kê khai TSTN cuối năm 2022 tới các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền địa phương tỉnh Bắc Ninh; UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 545/KH-UBND ngày 07/12/2022 tổ chức việc kê khai, bàn giao, công khai bản kê khai tài sản, thu nhập hàng năm, bổ sung trong các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương tỉnh Bắc Ninh năm 2022. Tổng số đơn vị thực hiện kê khai tài sản, thu nhập cuối năm 2022 trên địa bàn tỉnh là 44 đơn vị là đầu mối tổ chức kê khai với 900 lượt đơn vị trực thuộc thực hiện việc kê khai. Tổng số người đã kê khai là 4.447/4.447 người. Trong đó, 3.754 người kê khai hàng năm, 112 người kê khai bổ sung, 117 người kê khai lần đầu, 464 người kê khai phục vụ công tác cán bộ.
Thực hiện Văn bản số 248/TTCP-C.IV ngày 08/7/2022 của Thanh tra Chính phủ về việc định hướng xác minh tài sản, thu nhập năm 2022, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 690/QĐ-UBND ngày 19/7/2022 phê duyệt nội dung kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập năm 2022; Chánh Thanh tra tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 22/KH-TTr.NV4 ngày 19/7/2022 về việc xác minh tài sản, thu nhập năm 2022; ngày 04/10/2022, Chánh Thanh tra tỉnh đã ban hành Quyết định số 127/QĐ-TTr.NV4, về việc xác minh tài sản, thu nhập theo Kế hoạch của Thanh tra tỉnh năm 2022. Căn cứ Văn bản số 2220/TTCP-C.IV ngày 15 tháng 12 năm 2022 của Thanh tra Chính phủ về việc định hướng xác minh tài sản, thu nhập năm 2023, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 105/QĐ-UBND ngày 27/01/2023 phê duyệt nội dung kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập năm 2023.
Ngoài ra, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tiếp tục yêu cầu các cấp ủy, chính quyền phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các tổ chức thành viên trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về PCTN; giám sát việc phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động công vụ; chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông nâng cao vai trò, trách nhiệm trong công tác PCTN, đảm bảo thông tin khách quan, trung thực.
Ban Chỉ đạo PCTN, TC tỉnh cũng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án kinh tế, tham nhũng, tiêu cực, nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm; tập trung giải quyết hậu quả của các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, đất đai nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và người dân.
Nhìn chung, trong thời gian vừa qua, công tác PCTN đã được UBND tỉnh Bắc Ninh triển khai kịp thời, đồng bộ, toàn diện và đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động của các cấp các ngành và người dân. Thực hiện đầy đủ công tác kê khai, công khai tài sản, thu nhập theo chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ trên địa bàn tỉnh. Tăng cường công khai minh bạch, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, quan tâm công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật PCTN. Các vụ việc, vụ án có liên quan đến tham nhũng được quan tâm chỉ đạo xử lý nghiêm túc, kịp thời.
Để thực hiện tốt công tác PCTN, TC trong thời gian tới, UBND tỉnh cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, của Tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí và phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng… Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, trọng tâm là việc hoàn thiện thể chế, công khai, minh bạch các hoạt động của các cơ quan Nhà nước, gắn với cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước.
Tăng cường phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng thông qua thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện công tác kê khai, công khai, kiểm soát tài sản, thu nhập. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCTN, gắn với việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân./.
(Nguồn: ThanhtraVietNam)

Ngay từ đầu năm 2023, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, ban hành đầy đủ, kịp thời các Văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, TC bằng việc quán triệt nhiều nội dung chỉ thị, kế hoạch của Trung ương, đồng thời, ban hành và chỉ đạo ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, văn bản về công tác PCTN, TC. Qua đó, UBND tỉnh chỉ đạo triển khai, thực hiện đầy đủ, kịp thời đến các cấp, các ngành, cơ quan, tổ chức, đơn vị trên địa bàn tỉnh.
Theo thống kê, các cấp, các ngành tại Vĩnh Phúc đã ban hành mới 24 văn bản để thực hiện Luật PCTN và các văn bản hướng dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung 09 văn bản không còn phù hợp. UBND tỉnh và các sở, ban, ngành của tỉnh đã ban hành 09 văn bản mới; sửa đổi, bổ sung 36 văn bản không còn phù hợp về chế độ, định mức, tiêu chuẩn trên các lĩnh vực, đảm bảo việc quản lý, điều hành hoạt động được công khai, minh bạch; tạo lập kỷ cương, nền nếp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
Việc công khai, minh bạch đã được các cấp, ngành, đơn vị nghiêm túc thực hiện trong các lĩnh vực như: Tài chính, ngân sách; mua sắm tài sản công; đầu tư xây dựng cơ bản; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; các khoản đóng góp của nhân dân; quy trình giải quyết thủ tục hành chính; công tác tổ chức cán bộ… Việc thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp, các cơ quan chức năng biết, thực hiện và giám sát, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tham nhũng. Về thực hiện chuyển đổi vị trí công tác của người có chức vụ, quyền hạn, báo cáo thanh tra tỉnh cho biết, 3 tháng đầu năm 2023, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã xây dựng kế hoạch và thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với 20 trường hợp, đảm bảo đúng quy định về đối tượng, thời gian theo quy định của Luật PCTN.
Bên cạnh đó, các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã tích cực thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý và thanh toán không dùng tiền mặt.Trong năm 2022, đã có khoảng 1,2 triệu văn bản luân chuyển đến và đi trên phần mềm quản lý văn bản và điều hành của tỉnh. Tỷ lệ ký số văn bản trên phần mềm đạt gần 99%. Phần mềm một cửa, dịch vụ công trực tuyến iGate của tỉnh chính thức sử dụng từ ngày 01/01/2022 truy cập tại địa chỉ dichvucong.vinhphuc.gov.vn. Đến nay, đã kết nối 747 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 với Cổng dịch vụ công quốc gia.
Việc thực hiện các quy định về kiểm soát về tài sản, thu nhập (TSTN) của người có chức vụ, quyền hạn cũng đã được Thanh tra tỉnh triển khai nghiêm túc. Năm 2022, trên địa bàn toàn tỉnh có 71/71 đơn vị thực hiện kê khai tài sản, thu nhập, đạt tỷ lệ 100%; Số người đã kê khai tài sản, thu nhập năm 2022 là 3.676 người/3.677 người phải kê khai; đạt tỷ lệ 99,97% số người phải kê khai. Số bản kê khai đã công khai theo hình thức niêm yết: 1.408 bản, tỷ lệ 38,3% so với số bản đã kê khai, số bản kê khai đã công khai theo hình thức công bố tại cuộc họp là 2.268 bản, tỷ lệ 61,7% so với số bản đã kê khai. Thanh tra tỉnh đã thành lập tổ xác minh bản kê khai tài sản thu nhập đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập theo tỷ lệ 20 % số cơ quan, tổ chức, đơn vị trên địa bàn tỉnh theo quy định của Luật PCTN năm 2018 và Nghị định số 130/2020/NĐ-CP.
Có thể thấy, Thanh tra tỉnh đã tham mưu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện công tác PCTN, TC để Tỉnh ủy, UBND chỉ đạo, triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ PCTN theo chỉ đạo của Trung ương; công tác kiểm soát tài sản, thu nhập đã được thực hiện, Thanh tra tỉnh đã thành lập tổ xác minh tài sản, thu nhập đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập; công tác thanh tra, kiểm tra việc công khai, minh bạch về tổ chức, hoạt động theo quy định của Luật PCTN trong quản lý, sử dụng ngân sách Nhà nước, nguồn vốn đầu tư đã được thực hiện. Quan hệ phối hợp công tác giữa cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán với các cơ quan chức năng trong công tác PCTN, TC ngày càng chặt chẽ, hiệu quả.
Đáng chú ý, chỉ trong 3 tháng đầu năm, các cơ quan điều tra truy tố, xét xử đã phát hiện, truy tố 12 vụ việc, với 17 người. Trong đó kỳ trước chuyển sang 08 vụ việc, khởi tố mới 04 vụ việc, 08 người liên quan đến tham nhũng. Tổng số tiền tham nhũng được phát hiện trên 6 tỷ đồng, đồng thời thu hồi số tiền tham nhũng bằng các biện pháp hành chính và tư pháp đạt hiệu quả.
Để phát huy những kết quả đã đạt được, trong thời gian tới, tỉnh Vĩnh Phúc cần tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tác hại của tham nhũng, xác định rõ trách nhiệm của công dân và toàn xã hội trong tham gia PCTN, TC. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, quản lý, điều hành của chính quyền đối với công tác PCTN, TC, lãng phí; triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về PCTN, TC, lãng phí. Nêu cao vai trò, trách nhiệm, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên, cán bộ, công chức PCTN, TC; chủ động thực hiện các giải pháp phòng ngừa, tự phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng trong nội bộ.
Thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng, kiên quyết xử lý các tổ chức đảng và đảng viên vi phạm các quy định về PCTN. Thực hiện tốt chế độ thanh tra trách nhiệm người đứng đầu trong thực thi pháp luật PCTN.
Cùng với đó, tiếp tục hoàn thiện công tác tổ chức cán bộ, tăng cường quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên phục vụ PCTN; thực hiện luân chuyển điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý có dư luận, có biểu hiện tham nhũng; không đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu tái cử những người bao che cho tham nhũng. Thực hiện cải cách hành chính theo mô hình “một cửa liên thông”, “một cửa điện tử ”; công khai đầy đủ chính xác hoạt động của cơ quan công quyền; các chủ trương chính sách, dự án, gắn với các giải pháp phòng ngừa tham nhũng. Rà soát các quy định hiện hành về quản lý kinh tế; kịp thời sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế quản lý, nhất là các ngành, lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực.
Đồng thời, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chuyên trách chống tham nhũng nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, đấu tranh, xử lý các vụ án tham nhũng phức tạp; xử lý nghiêm minh, kịp thời, đồng bộ về kỷ luật; tăng cường công tác xử lý, giải quyết đơn thư tố cáo về tham nhũng. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân, duy trì hộp thư điện tử, đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý kịp thời thông tin phản ánh, tố giác các hành vi tham nhũng, tiêu cực./.
(Nguồn: ThanhtraVietNam)
Ngày 13/6, Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra (CL&KHTT), Thanh tra Chính phủ tổ chức tọa đàm khoa học với chủ đề “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và thông điệp phòng, chống tham nhũng”. Tọa đàm do Viện trưởng Viện CL&KHTT TS Nguyễn Quốc Văn chủ trì.

Báo cáo PCI 2022 cho thấy, có 11.872 doanh nghiệp, trong đó có 10/590 doanh nghiệp tư nhân và 1282 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Theo đánh giá năm 2022, có 30 địa phương có kết quả PCI tốt nhất năm 2022, trong đó các tỉnh thành Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Tháp lần lượt đứng trong tốp đầu các địa phương có chất lượng điều hành kinh tế cao nhất trong bảng xếp hạng PCI.
Theo báo cáo, chất lượng giải quyết thủ tục hành chính có chuyển biến đáng kể, cho thấy công cuộc đổi mới, vì doanh nghiệp tiếp tục lan tỏa rộng khắp và nhận được sự ghi nhận của xã hội.
Tuy nhiên vẫn còn những bất cập, tồn tại trong cách hành xử, hỗ trợ doanh nghiệp. Các lĩnh vực thủ tục hành chính phiền hà nhất theo cảm nhận của doanh nghiệp là thuế, phí; giải phóng mặt bằng; bảo hiểm xã hội… Đây được cho là những lỗ hổng để phát sinh hành vi tham nhũng tiêu cực
Tại tọa đàm, TS Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng Thư ký VCCI chia sẻ thông điệp cụ thể mà PCI mang lại trong việc phòng, chống tham nhũng và tìm kiếm các giải pháp hiệu quả đề xây dựng một nền kinh tế – xã hội lành mạnh. Theo ông Đậu Anh Tuấn, PCI sẽ ngày càng quan trọng, là kênh đối thoại của các doanh nghiệp như trao quyền cho các doanh nghiệp; đánh giá thiết thực, tạo ra phản ứng cấp tỉnh định kỳ phải đánh giá rà soát lại môi trường kinh doanh của mình. Đây là cách thức nhằm cải cách kinh doanh thúc đẩy môi trưởng đầu tư tại Việt Nam
Tại tọa đàm, các đại biểu cũng đã thảo luận về các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh trong PCI và tầm quan trọng của các yếu tố đó trong việc tạo ra năng lực cạnh tranh và giảm thiểu tham nhũng; về mối liên hệ giữa PCI và mức độ tham nhũng; các ví dụ cụ thể về các tỉnh có PCI cao và mức độ tham nhũng thấp cũng như kinh nghiệm để đạt được thành công này. Đồng thời, thảo luận các giải pháp cải thiện hiệu quả phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh dựa trên các kết quả nghiên cứu PCI; các vấn đề, thách thức và cơ hội trong việc thúc đẩy hiệu quả phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh ở Việt Nam.

Theo Nghị quyết số 76-NQ/BCSĐ, trong những năm qua, bên cạnh kết quả đạt được, công tác thanh tra còn có không ít tồn tại, hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do một số cơ quan thanh tra chưa quan tâm sát sao trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra; trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của một số cán bộ, công chức thanh tra chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong công tác phát hiện, chuyển giao vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự có lúc chưa chặt chẽ, nhịp nhàng, ăn khớp.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Ban cán sự đảng Thanh tra Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76 – NQ/BCSĐ nhằm triển khai thực hiện đồng bộ pháp luật về thanh tra, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, làm rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong hoạt động thanh tra; chủ động phòng ngừa, phát hiện, chấn chỉnh, xử lý kịp thời thiếu sót, vi phạm trong hoạt động thanh tra, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ và Nhân dân.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ thanh tra
Với yêu cầu nhiệm vụ tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, Nghị quyết số 76 – NQ/BCSĐ nhấn mạnh, hoạt động thanh tra phải tuân thủ quy định của pháp luật; không được vi phạm những điều cấm trong hoạt động thanh tra và những điều cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức không được làm, nhất là không được nhận tiền, nhận quà, ăn uống, giao lưu dưới mọi hình thức với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung, đối tượng thanh tra và quán triệt tinh thần thanh tra phải phát hiện, xử lý nghiêm vi phạm, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào“.
Cán bộ, đảng viên, công chức thanh tra bên cạnh việc chấp hành đúng quy định của pháp luật về thanh tra, cần phải thực hiện nghiêm những nội dung sau:
(1). Giai đoạn chuẩn bị thanh tra: Thủ trưởng cơ quan thanh tra chỉ đạo Thủ trưởng đơn vị chủ trì cuộc thanh tra tiến hành thu thập thông tin, tài liệu để phục vụ cho việc ban hành quyết định thanh tra, xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra, trong đó, phải làm rõ nội dung, đối tượng, thời kỳ, thời hạn thanh tra, có trọng tâm, trọng điểm, tính khả thi, đồng thời dự kiến nhân sự Đoàn thanh tra là những người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của cuộc thanh tra.
(2). Giai đoạn thanh tra: Đoàn thanh tra có trách nhiệm tiến hành thanh tra theo kế hoạch được phê duyệt, không được bỏ lọt, bỏ sót nội dung, đối tượng, phạm vi thanh tra; tập trung thu thập, nghiên cứu thông tin, tài liệu, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo, giải trình; làm rõ hành vi vi phạm pháp luật, củng cố chứng cứ và lập biên bản ghi nhận các hành vi vi phạm pháp luật; trên cơ sở đó, kiến nghị ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Trường hợp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm, Trưởng đoàn thanh tra phải báo cáo Người ra quyết định thanh tra xem xét, quyết định ngay việc chuyển vụ việc sang cơ quan điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật (không chờ đến khi kết thúc thanh tra, kết luận thanh tra); đồng thời, thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Đối với vụ việc phức tạp, cơ quan thanh tra tổ chức cuộc họp với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp để phân tích, đánh giá hồ sơ, tài liệu, chứng cứ, thống nhất xác định dấu hiệu tội phạm trước khi chuyển vụ việc sang cơ quan điều tra. Khi thấy cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra báo cáo Người ra quyết định thanh tra áp dụng các biện pháp ngăn chặn để đối tượng thanh tra không có thời gian, cơ hội tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tiền, tài sản đã chiếm đoạt.
Trường hợp phát hiện tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước thì chuyển hồ sơ cho Ủy ban Kiểm tra cấp có thẩm quyền để kiểm tra, xử lý theo quy định của Đảng. Đối với cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thì chuyển hồ sơ cho Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị, Người được giao thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra, thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra. Trường hợp phát hiện Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra vi phạm pháp luật hoặc bao che, bỏ lọt, bỏ sót, bỏ qua vi phạm của đối tượng thanh tra hoặc kiến nghị xử lý không tương ứng với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm thì báo cáo Thủ trưởng cơ quan thanh tra hoặc Người ra quyết định thanh tra xem xét, xử lý theo quy định pháp luật.
(3). Giai đoạn kết thúc thanh tra: Đoàn thanh tra báo cáo kết quả thanh tra, cùng Thủ trưởng đơn vị tham mưu Người ra quyết định thanh tra ban hành kết luận thanh tra, kiến nghị xử lý chính xác, kịp thời, khách quan, đúng pháp luật, không được bao che, bỏ lọt, bỏ sót, bỏ qua bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào của đối tượng thanh tra, nhất là các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự.
Giải pháp tổ chức, triển khai thực hiện
Từ những kết quả đã đạt được, cũng như thực tiễn tổ chức thực hiện công tác thanh tra, Nghị quyết số 76-NQ/BCSĐ đề ra một số giải pháp trọng tâm, trong đó, yêu cầu tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ, đảng viên, công chức thanh tra, nhất là các quy định của Luật Thanh tra năm 2022. Nghị quyết số 76-NQ/BCĐ nhấn mạnh, đề cao trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị thanh tra trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Coi chất lượng, hiệu quả thanh tra là thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và mức độ hoàn thành nhiệm vụ, là căn cứ để thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
Nghị quyết của Ban cán sự đảng Thanh tra Chính phủ cũng yêu cầu nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và Thủ trưởng đơn vị được giao chủ trì cuộc thanh tra trong thực hiện nhiệm vụ thanh tra, chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng để kịp thời chuyển vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra; chuyển thông tin vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên phát hiện qua hoạt động thanh tra sang Ủy ban kiểm tra của Đảng. Tăng cường giám sát hoạt động Đoàn thanh tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý nghiêm minh đối với thành viên Đoàn thanh tra vi phạm pháp luật trong hoạt động thanh tra, nhất là các trường hợp bao che, bỏ lọt, bỏ sót hành vi vi phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân; lợi dụng hoạt động thanh tra để trục lợi.
Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về phát hiện, chuyển vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra, chuyển vụ việc vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên sang Ủy ban kiểm tra của Đảng để đảm bảo cơ chế, chính sách, pháp luật về thanh tra, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra.
Ngoài ra, để đảm bảo tăng cường năng lực cho những người tiến hành thanh tra, Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng cũng đề ra giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức thanh tra có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, có năng lực, kỹ năng nghiệp vụ, chấp hành tốt kỷ cương, kỷ luật, liêm chính, trách nhiệm trong thực thi công vụ; kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức lối sống.
Ban cán sự đảng yêu cầu Thủ trưởng các cục, vụ, đơn vị thuộc Thanh tra Chính phủ; Chánh Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chánh thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm phổ biến, quán triệt, triển khai, cụ thể hóa Nghị quyết này đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị mình; chủ động kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý vi phạm trong hoạt động thanh tra. Định kỳ hằng năm, báo cáo Ban cán sự đảng Thanh tra Chính phủ kết quả thực hiện Nghị quyết cùng với báo cáo tổng kết công tác thanh tra./.
