Đó là khẳng định ông Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương cùng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai tại buổi tiếp xúc cử tri huyện Mường Khương ngày 5/12.

Tại buổi tiếp xúc đã có gần 300 cử tri các xã, thị trấn, các ngành, đơn vị, đại biểu huyện Mường Khương dự và nêu ý kiến.
Sau khi đại diện Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai thông tin khái quát kết quả kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, đại diện cử tri huyện Mường Khương đã tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị và phản ánh những vướng mắc trong hưởng thụ chính sách; đề xuất tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, đời sống, công tác, lao động.
Hội nghị đã nghe ý kiến đại diện cử tri ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Mường Khương đề nghị có chính sách hợp đồng tuyển viên chức sự nghiệp giáo dục – đào tạo có trình độ đào tạo chuẩn từ cao đẳng trở lên. Nếu chỉ tuyển trình độ đại học như hiện nay sẽ rất thiếu đầu vào đáp ứng được chuẩn này, nhất là với khu vực vùng cao còn nhiều khó khăn như Mường Khương.
Cử tri cũng kiến nghị miễn học phí cho một số đối tượng cụ thể, trong đó có học sinh trung học phổ thông đang theo học ở thôn, xã, huyện vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, hải đảo.
Cử tri xã Pha Long kiến nghị Chính phủ sớm có đánh giá lại tác động của Quyết định 861/QĐ-TTg và chỉ đạo các bộ, ngành có giải pháp điều chỉnh về chính sách phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay.
Đại biểu xã Thanh Bình đề nghị đầu tư xây dựng Nhà Văn hóa truyền thống các dân tộc huyện Mường Khương và có cơ chế bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc trên địa bàn.
Còn cử tri thị trấn Mường Khương đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm quan tâm đầu tư xây dựng các trụ sở hành chính cấp xã trên địa bàn huyện; trước mắt đề nghị ưu tiên đầu tư trước các trụ sở xã: Dìn Chin, Nậm Chảy, Lùng Vai, Thanh Bình và thị trấn Mường Khương.
Cử tri ngành Nội vụ huyện đề nghị xem xét cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang của các huyện vừa là huyện nghèo, vừa là huyện biên giới được hưởng phụ cấp đặc biệt để cán bộ ổn định cuộc sống, gắn bó lâu dài với cơ sở.
Trả lời tại buổi tiếp xúc cử tri, ông Trịnh Xuân Trường, Chủ tịch UBND tỉnh và ông Đặng Xuân Phong, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai đã tiếp thu, giải đáp và làm rõ các ý kiến, kiến nghị của cử tri.
Các lãnh đạo khẳng định tỉnh Lào Cai tiếp tục quan tâm, dành sự ưu tiên nguồn lực đặc biệt cho khu vực các huyện nghèo, vùng cao, biên giới. Nổi bật là việc Ban Chấp hành Đảng bộ giao nhiệm vụ phụ trách, hỗ trực trực tiếp xã nghèo cho các đồng chí Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ, miễn giảm học phí, bù chi phí sinh hoạt cho học sinh vùng đặc biệt khó khăn bị ảnh hưởng bởi những điều chỉnh từ Quyết định 861/QĐ-TTg; ưu tiên các nguồn lực cho vùng cao, vùng có “lõi nghèo”…
Phát biểu tại hội nghị tiếp xúc cử tri, Chủ nhiệm UBKT Trung ương Trần Cẩm Tú nhấn mạnh: Năm 2023, dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng kinh tế vĩ mô vẫn ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị tiếp tục được đẩy mạnh với phương châm kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó lấy “xây” làm cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là quan trọng, cấp bách.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã đưa ra những quyết sách, tổng kết nhiều vấn đề lớn, có tính chiến lược, gắn với lợi ích của xã hội.
Trong đó có đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện kiên trì, liên tục, “không ngừng, không nghỉ” với quyết tâm chính trị cao, đạt nhiều kết quả quan trọng; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” với tinh thần “làm nghiêm từ trên xuống, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể đó là ai”.
Công tác kiểm tra, giám sát được quan tâm, chú trọng, tăng cường. Cùng với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần làm trong sạch bộ máy, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Giao nhiệm vụ cho các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Lào Cai trong thời gian tới, Chủ nhiệm UBKT Trung ương Trần Cẩm Tú chỉ rõ: Tỉnh cần tiếp tục quan tâm công tác xây dựng Đảng, đoàn kết, thống nhất trong Đảng và cả hệ thống chính trị. Triển khai xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, giữ gìn, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội 13 của Đảng, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gắn với đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Chủ nhiệm UBKT Trung ương Trần Cẩm Tú đặc biệt yêu cầu lãnh đạo tỉnh Lào Cai quan tâm, sâu sát hơn nữa với ý kiến, kiến nghị để giải quyết hoặc tham mưu, đề xuất việc giải quyết sớm, thỏa đáng tâm tư, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân trên địa bàn tỉnh.
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Trong tháng 11 và 12, toàn ngành Thuế đã, đang và sẽ tập trung hết sức vào thu ngân sách, triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tăng cường quản lý thu, chống thất thu gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra; công tác quản lý, đôn đốc thu hồi nợ; công tác hoàn thuế…

Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) tháng 11/2023 do cơ quan thuế quản lý đạt 124.884 tỷ đồng. Trong đó, thu từ dầu thô ước đạt 4.569 tỷ đồng; thu nội địa ước đạt 120.315 tỷ đồng.
Tổng thu NSNN lũy kế 11 tháng đầu năm 2023 do cơ quan thuế quản lý đạt 1.336.002 tỷ đồng, bằng 96,7% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, thu từ dầu thô ước đạt 56.544 tỷ đồng, bằng 134,6% so với dự toán; thu nội địa ước đạt 1.279.458 tỷ đồng, bằng 96,1% so với dự toán.
Để tiếp tục hỗ trợ người dân và doanh nghiệp (DN) vượt qua khó khăn, đẩy nhanh tốc độ hồi phục nền kinh tế trong năm 2023, trong 11 tháng đầu năm, Chính phủ đã ban hành theo thẩm quyền và trình các cấp có thẩm quyền ban hành nhiều chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế cho DN và người dân với tổng số tiền thuế, tiền thuê đất thuộc diện được gia hạn, miễn, giảm là khoảng 165.026 tỷ đồng, trong đó: số tiền thuế, tiền thuê đất thuộc diện được gia hạn khoảng 106.946 tỷ đồng; số tiền thuế, tiền thuê đất được miễn, giảm khoảng 58.080 tỷ đồng.
Tính đến hết tháng 11 năm 2023, toàn ngành Thuế đã thực hiện được 62.343 cuộc thanh tra, kiểm tra tại trụ sở DN; kiểm tra được 581.367 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Qua thanh tra, kiểm tra đã kiến nghị, xử lý với tổng số tiền là 57.937 tỷ đồng, trong đó, tổng số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 15.117,16 tỷ đồng; giảm khấu trừ là 1.985,05 tỷ đồng; giảm lỗ là 40.835,11 tỷ đồng. Tổng số tiền thuế nộp vào ngân sách là 11.529,08 tỷ đồng, bằng 76,26% số tăng thu qua thanh tra, kiểm tra.
Trong tháng 11/2023, cơ quan thuế các cấp đã thu hồi được 3.500 tỷ đồng tiền thuế nợ đọng. Lũy kế 11 tháng đầu năm ước thu nợ đạt 42.312 tỷ đồng.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, Tổng cục Thuế đã yêu cầu các vụ, đơn vị tiếp tục bám sát và đánh giá tình hình kinh tế thế giới, trong nước; phân tích, nhận định những tác động từ những chính sách tài khóa tiền tệ mà các nước thực hiện đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nước để nhận diện đúng những rủi ro, kịp thời tham mưu cho Bộ Tài chính, Chính phủ có kịch bản, giải pháp chủ động trong điều hành thu NSNN trong tháng 12 và quý IV năm 2023.
Cục Thuế DN lớn cần tiếp tục bám sát diễn biến, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty để đánh giá nguồn thu NSNN tháng 12, quý IV và cả năm 2023 để có giải pháp điều hành thu hiệu quả; tiếp tục tổ chức quản lý thuế hiệu quả đối với các nhà cung cấp nước ngoài; rà soát, đôn đốc các nhà cung cấp nước ngoài chưa thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế trên cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế…
Tổng cục Thuế cũng yêu cầu, tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các biện pháp đôn đốc, cưỡng chế thu hồi nợ thuế tại các cục thuế và tham mưu Tổng cục chấn chỉnh nghiêm các đơn vị vi phạm. Đồng thời, tham mưu Tổng cục các giải pháp đôn đốc, cưỡng chế, thu hồi nợ thuế hiệu quả, phù hợp trong những tháng cuối năm, giảm thiểu tình trạng nợ thuế gia tăng.
Đối với công tác thanh tra, kiểm tra cần tập trung hoàn thành kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2023, kế hoạch kiểm tra chuyên đề của cơ quan Tổng cục Thuế đã được phê duyệt.
Bên cạnh đó cần tiếp tục rà soát, tổng hợp các hành vi gian lận về hóa đơn, trốn thuế… kết quả thực hiện kiến nghị của Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước và các vụ án để có biện pháp tuyên truyền, phổ biến kịp thời định kỳ hằng tháng, hằng quý tới các cục thuế, các vụ, đơn vị nắm, nghiên cứu dưới dạng sổ tay nghiệp vụ hoặc các hình thức tương tự phù hợp.
Tổng cục Thuế cũng yêu cầu các vụ đơn vị khẩn trương xây dựng quy trình áp dụng quản lý rủi ro trong công tác lựa chọn hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt có dấu hiệu rủi ro để kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế, trình Tổng cục ban hành. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện bộ chỉ số tiêu chí rủi ro tổng thể.
Các cục thuế bám sát tình hình thực tế, rà soát, đánh giá để phòng ngừa kịp thời tình trạng gian lận trong việc lập hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền của các doanh nghiệp, hộ, cá nhân kinh doanh, từ đó có báo cáo, đề xuất các giải pháp, tham mưu Tổng cục chỉ đạo kịp thời, qua đó nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
Chiều ngày 05/12, Trường Cán bộ Thanh tra tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học cấp khoa do ThS Phạm Thị Hường làm Chủ nhiệm với chủ đề “Xây dựng phương pháp thực hành cho các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra”.

Tham dự và chủ trì buổi nghiệm thu có TS. Nguyễn Tuấn Khanh, Phó Hiệu trưởng kiêm Chủ tịch Hội đồng khoa học Trường; các thành viên Hội đồng nghiệm thu và các giảng viên; nhóm tác giả đề tài và các đại biểu mời.

Đại diện nhóm tác giả thực hiện đề tài, ThS. Phạm Thị Hưởng đã báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu đề tài trước Hội đồng nghiệm thu. Đề tài khoa học “Xây dựng phương pháp thực hành cho các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra” gồm những nội dung: Những vấn đề chung về phương pháp thực hành trong hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên, thanh tra viên chính tại Trường Cán bộ Thanh tra; Thực trạng việc sử dụng phương pháp thực hành tình huống ở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên, thanh tra viên chính của Trường Cán bộ Thanh tra; Định hướng và giải pháp xây dựng phương pháp thực hành cho các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên, thanh tra viên chính tại Trường Cán bộ Thanh tra.
Theo Ban Chủ nhiệm đề tài, trước đây, phương pháp giảng dạy chủ yếu là thuyết giảng, giảng viên trình bày tuần tự các vấn đề lí thuyết cho học viên. Mặc dù nhiều giảng viên đã có nỗ lực tương tác với học viên, xây dựng bài giảng bằng slide thuyết trình, lấy ví dụ tình huống trực quan, sinh động, nhưng nhìn chung các biện pháp này không thể khắc phục hoàn toàn những hạn chế của phương pháp thuyết giảng, đó là nặng về lí thuyết, thiếu liên hệ thực tiễn, thiếu gợi mở.
Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy trong giai đoạn hiện nay nhà trường thực hiện chương trình mới thay đổi nội dung từ việc cung cấp kiến thức sang tăng cường kỹ năng, tăng thời lượng trong bồi dưỡng, giảm giờ lý thuyết trên lớp, tăng giờ thảo luận, thực hành, kỹ năng nghề nghiệp, xử lý các tình huống trên thực tế. Qua đó, đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của công chức ngành Thanh tra khi tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng tại trường.

Trường Cán bộ Thanh tra đã tổ chức thí điểm cho các học viên vận dụng những kiến thức lý luận đã được trao đổi để thực hành, xử lý các tình huống trong thực tiễn công tác như: Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng. Tuy nhiên, việc thực hành mới đang ở giai đoạn thí điểm ở một số lớp trong hệ bồi dưỡng thanh tra viên, thanh tra viên chính nên phương pháp tổ chức thực hành còn nhiều khó khăn, lúng túng như việc thực hành ở các lớp học trực tiếp khác với thực hành ở lớp học online, đánh giá việc thực hành của học viên trên các tiêu chí cụ thể gì, có cho điểm cụ thể không. Vì vậy, yêu cầu đặt ra trong thời gian tới đó là cần phải có phương pháp thực hành để đạt hiệu quả cao trong quá trình bồi dưỡng tại Trường Cán bộ Thanh tra.

Buổi nghiệm thu đã diễn ra trong không khí nghiêm túc, dân chủ, khoa học. Các thành viên hội đồng đã ghi nhận sự nỗ lực nghiên cứu của nhóm tác giả, đánh giá tốt những kết quả nghiên cứu bước đầu đạt được và có một số góp ý cụ thể đối với nội dung các chuyên đề nghiên cứu, đề xuất những điểm cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung để hoàn thiện đề tài. Nhóm tác giả đã giải trình làm rõ một số vấn đề của các thành viên Hội đồng có ý kiến.


Kết luận tại Hội đồng nghiệm thu, chủ trì Hội đồng nghiệm thu yêu cầu chủ nhiệm và nhóm tác giả đề tài nghiêm túc tiếp thu các ý kiến góp ý của các thành viên Hội đồng hoàn thiện báo cáo kết quả đề tài, phát huy những kết quả nghiên cứu đã đạt được tiếp tục có những nghiên cứu sâu hơn, đề xuất cho Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường kế hoạch, biện pháp để chuyển giao kết quả nghiên cứu, thực hiện hiệu quả, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được Hội đồng thông qua và đánh giá mức độ đạt loại xuất sắc.
Ngày 05/12/2023, Trường Cán bộ Thanh tra đã tổ chức cho học viên lớp Thanh tra viên K20/2023 buổi học dựa trên việc giải quyết tình huống giả định. Các học viên sẽ phải vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào thực tiễn để giải quyết các tình huống cụ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động thanh tra như: tiến hành một cuộc thanh tra; một buổi tiếp công dân hay giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng các Chương trình đào tạo, gắn liền kiến thức lý luận với thực tiễn, nằm trong khung Chương trình Bồi dưỡng nghiệp vụ Thanh tra viên.

Tham dự có TS. Nguyễn Tuấn Khanh – Phó hiệu trưởng Nhà trường; Đại diện Khoa nghiệp vụ I có thầy Lê Ngọc Thiều – Trưởng Khoa Nghiệp vụ I, cô Trần Thị Thúy – Phó Trưởng Khoa Nghiệp vụ I; đại diện Khoa Nghiệp vụ II có cô Phạm Thị Hồng Lương – Phó Trưởng Khoa Nghiệp vụ II cùng các thầy, các cô và toàn thể các học viên lớp Thanh tra viên K20/2023.
Trên cơ sở các kiến thức, kỹ năng đã học, học viên được yêu cầu đóng vai trong các tình huống giả định để giải quyết tình huống trong thực tiễn. Các tình huống giả định được xây dựng nhằm để học viên cọ xát với những tình huống thực tế trong quá trình thực hiện một cuộc thanh tra; tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo dựa trên nội dung của khung Chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngạch thanh tra viên. Sau khi được đào tạo, bồi dưỡng về: Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; khái quát chung về công tác thanh tra; nội dung cơ bản của pháp luật thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, tiếp công dân; nội dung cơ bản của pháp luật tố tụng hành chính; thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật; đạo đức công vụ của cán bộ, công chức thanh tra; nội dung cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự; chứng cứ trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tâm lý trong hoạt động thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo…


Dựa trên yêu cầu của giảng viên, các học viên đã xây dựng tình huống giả định với mục tiêu gắn lý thuyết với thực tiễn trong hoạt động thanh tra nhằm giải quyết hiệu quả, kịp thời các tình huống góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng và phòng ngừa, phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý kịp thời, nghiêm minh các sai phạm, khiếm khuyết. Từ tình huống giả định được học viên xây dựng toàn diện về một cuộc thanh tra cho thấy, để đưa ra những nhận xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra luôn phải lấy pháp luật làm thước đo, làm tiêu chí để so sánh, đánh giá. Trong đó, nếu pháp luật chưa quy định thì cần tổng hợp, kiến nghị bổ sung, điều chỉnh các văn bản pháp luật cho kịp thời, phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, việc xử lý, kiến nghị xử lý sai phạm, khiếm khuyết được phát hiện qua hoạt động thanh tra không thuần túy chỉ dựa vào pháp luật, mà còn phải tính tới các yếu tố khác như chính trị, xã hội, lợi ích của cộng đồng, của quốc gia, dân tộc.

Những nội dung tình huống giả định này đã giúp cho học viên có góc nhìn tổng quát hơn về thực hiện cuộc thanh tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo. Nội dung giả định được học viên xây dựng đã phản ánh toàn diện phẩm chất, giá trị của hoạt động thanh tra, nhưng phần nào đã mô tả kết quả thanh tra bằng những con số “biết nói”, chỉ ra những quyết định, quy định, cơ chế, chính sách nào không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn; kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm chính trị đối với tập thể, đơn vị, cá nhân có sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lý trách nhiệm hình sự bao nhiêu vụ việc… Những tình huống đó đã phần nào khắc họa “phẩm chất”, “giá trị” cuộc thanh tra hay nói một cách trực diện, đó là bài học phản ánh chất lượng cuộc thanh tra.

Đóng góp ý kiến cho học viên, các thầy, các cô giảng viên Trường cán bộ Thanh tra chia sẻ cùng học viên và đánh giá cao tâm huyết của học viên trong việc xây dựng, tham gia các tình huống giả định về công tác thanh tra; tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo theo khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, các thầy, các cô giảng viên cũng chia sẻ về hoạt động thanh tra đòi hỏi người tiến hành thanh tra vừa phải có phẩm chất, đạo đức trong sáng, vừa phải có năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Điều này đòi hỏi người tiến hành thanh tra, đặc biệt là trưởng Đoàn thanh tra phải am hiểu chính sách, pháp luật, hiểu biết về quản lý hành chính Nhà nước, thành thạo kỹ năng xem xét, đánh giá và có kiến thức về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ liên quan tới nội dung thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng. Đoàn thanh tra còn phải nhuần nhuyễn kỹ năng lãnh đạo, quản lý, có năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ, kinh nghiệm xử lý tình huống và đủ bản lĩnh vượt qua những thách thức trong hoạt động thanh tra.

Trong tình huống giả định trong công tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng của lớp Thanh tra viên K20/2023 đã tổ chức nghiên cứu tài liệu, xây dựng tình huống đối thoại trong giải quyết đơn khiếu nại của công dân với nôi dung này đã được các thầy, các cô Khoa nghiệp vụ II đã chia sẻ cùng học viên và đánh giá cao tâm huyết của học viên trong việc xây dựng, tham gia các tình huống giả định về công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường.

Việc tổ chức đối thoại trong công tác tiếp công dân là một phương thức nhằm làm rõ nội dung khiếu nại, nắm bắt yêu cầu và quan điểm của các bên có liên quan đối với việc giải quyết khiếu nại. Từ đó làm căn cứ để người giải quyết khiếu nại có định hướng giải quyết vụ việc, đảm bảo quyền lợi chính đáng của công dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều vụ việc giải quyết khiếu nại còn có sai sót, chưa triệt để, gây bức xúc trong Nhân dân; kết quả các cuộc đối thoại chưa đi đúng trọng tâm, trọng điểm, không đạt được những mục đích.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, góp phần giải quyết dứt điểm những khiếu nại tồn đọng, phức tạp, kéo dài cần phải chú trọng vào chất lượng của việc tổ chức đối thoại, tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật về khiếu nại đối với người dân, cán bộ, công chức nhằm nâng cao nhận thức về công tác giải quyết khiếu nại nói chung và ý nghĩa của đối thoại trong giải quyết khiếu nại nói riêng. Bên cạnh đó, cần phải thực hiện tốt công tác tiếp công dân ngay tại cơ sở; nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, có sự quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, bố trí đủ cán bộ có năng lực, trình độ, kỹ năng làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Bên cạnh đó, việc giải thích, hướng dẫn cho người đến giải quyết khiếu nại tố cáo, kiến nghị, phản ánh chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật, kết luận, quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; hướng dẫn người giải quyết khiếu nại tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết… cũng được các học viên đưa ra thảo luận đóng góp ý kiến trong buổi học dựa trên việc giải quyết tình huống giả định được xây dựng nhằm để học viên cọ xát với những tình huống thực tế trong quá trình thực hiện một cuộc thanh tra; tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng dựa trên nội dung của khung Chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngạch thanh tra viên.
Sáng 05/12, Trường Cán bộ Thanh tra (TCBTT) tổ chức Lễ khai giảng trực tuyến lớp Bồi dưỡng nghiệp vụ Thanh tra viên (TTV) K23/2023 cho 105 học viên là cán bộ, công chức trong ngành Thuế trên cả nước. Dự và phát biểu tại Lễ khai giảng có ThS. Phạm Thị Thu Hiền, CVCC, Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra cùng đại diện Lãnh đạo các phòng, khoa, Trung tâm thuộc Nhà trường.

Tham gia khóa học có 105 học viên, khóa học sẽ diễn ra trong hơn một tháng “hình thức học trực tuyến”. Trong đó, các học viên sẽ được nghiên cứu gồm nhiều chuyên đề liên quan đến kiến thức chung về công chức, công vụ như: Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; Khái quát chung về công tác thanh tra; Nội dung cơ bản của pháp luật Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, tiếp công dân; Nội dung cơ bản của pháp luật Tố tụng hành chính; Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật; Đạo đức công vụ của cán bộ, công chức thanh tra; Nội dung cơ bản của pháp luật Hình sự và tố tụng hình sự; Chứng cứ trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Tâm lý trong hoạt động thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo…
Phát biểu Lễ khai giảng khóa học trực tuyến, ThS. Phạm Thị Thu Hiền, CVCC, Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra đã nhiệt liệt chào mừng các học viên tham dự khóa học, đồng thời nhấn mạnh trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của Nhà trường và Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành Thanh tra năm 2023 đã được Tổng TTCP phê duyệt, Trường CBTT có trách nhiệm tổ chức mở lớp, rà soát, cập nhật giáo trình, tài liệu, bố trí đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất… đảm bảo đáp ứng tốt yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, TTV trên phạm vi toàn quốc. Những năm gần đây, để phù hợp với điều kiện thực tế, Trường CBTT đã linh hoạt tổ chức các khóa học theo hình thức trực tiếp, trực tuyến hoặc kết hợp trực tiếp và trực tuyến.

Từ đầu năm đến nay, Tổng cục Thuế đã chủ động phối hợp với Trường CBTT tổ chức được 10 khóa TTV và TTVC; đây là khóa bồi dưỡng nghiệp vụ TTV dành cho các CBCC công tác trong ngành Thuế đến từ 25 Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc TW trên cả nước. Khóa học được tổ chức theo hình thức trực tuyến diễn ra từ ngày 05/11/2023 đến ngày 15/01/2024 với sự tham gia của 105 học viên. Khóa học một mặt nhằm trang bị những kiến thức tổng quan, cơ bản về công tác TT, TCD, GQ KNTC và PCTN, kỹ năng nghiệp vụ của ngạch thanh tra viên, mặt khác để các anh chị học viên có đủ điều kiện bổ nhiệm vào ngạch TTV trong thời gian tới.
Trường CBTT là đơn vị sự nghiệp thuộc TTCP, có chức năng ĐTBD nghiệp vụ, kỹ năng về công tác TT, TCD, GQ KNTC và PCTN phục vụ QLNN của TTCP. Các chương trình ĐTBD thuộc chức năng, nhiệm vụ của Nhà trường bao gồm: TTV, TTVC, TTVC; đào tạo theo Thỏa thuận HTQT (chủ yếu là cho Lào, CPC); các chương trình ĐTBD ngắn hạn, chuyên sâu trong phạm vi QLNN của TTCP, theo QĐPL về ĐTBD CBCCVC chung của Chính phủ và theo nhu cầu của các cơ quan, đơn vị, bộ ngành, địa phương (Trưởng đoàn TT, Tổ trưởng Tổ xác minh GQ KNTC, nghiệp vụ TCD, nghiệp vụ xác minh TSTN, kỹ năng xử phạt VPHC, Kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp phòng, kiến thức QLNN ngạch CV, CVC…). ThS. Phạm Thị Thu Hiền, CVCC, Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra chia sẻ.

Các học viên sẽ được nghiên cứu 13 chuyên đề thuộc phần Kiến thức chung, 08 chuyên đề thuộc phần Quy trình nghiệp vụ và 06 bài thực hành kỹ năng. Ngoài ra, các anh chị sẽ tham gia thực hành các tình huống giả định liên quan đến nghiệp vụ TT, TCD, giải quyết KNTC và PCTN. Đây là một trong những phương pháp thực hành mới được đưa vào chương trình giảng dạy của Nhà trường trong thời gian gần đây nhằm tăng cường thực hành kỹ năng, xử lý các tình huống trên thực tế. Phần đánh giá, kiểm tra, các học viên sẽ có 2 bài kiểm tra: 1 bài sau khi kết thúc phần Kiến thức và quy trình và 1 bài kiểm tra cuối khóa sau khi kết thúc phần Kỹ năng và Thực hành. Đây là khóa đào tạo, bồi dưỡng dành cho ngạch TTV vì vậy, số lượng chuyên đề thuộc phần Kiến thức chung nhiều hơn so với khóa bồi dưỡng TTV song với chủ trương tăng cường thực hành kỹ năng, giảm giờ giảng lý thuyết nên Nhà trường cũng đã bổ sung thêm các buổi thảo luận, báo cáo thực tế và thực hành các kỹ năng nghiệp vụ.
Cùng với đó, Trường CBTT đã và đang xúc tiến việc xây dựng Kênh Youtube với chuyên mục “Giải đáp pháp luật”, thông qua hình thức phát các video, sẽ dự kiến phát song vào đầu năm 2024 vào các ngày thứ 2,4,6 hàng tuần. Kênh Youtube của Trường CBTT có tên ITC Channel – là tên viết tắt bằng tiếng Anh của Trường. Đây sẽ là kênh thông tin chính thức của Trường CBTT chuyên giải đáp chính sách, pháp luật về lĩnh vực công tác thanh tra, TCD,GQ KNTC, PCTN, tiêu cực và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan.

Bên cạnh đó, mặc dù Trường CBTT cũng đã có rất nhiều cố gắng trong việc phối hợp với các đơn vị chức năng tham mưu cho Tổng TTCP trong việc hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cũng như cải thiện hơn về cơ sở vật chất, song cũng chưa thể đáp ứng hết những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn thực hiện nhiệm vụ cũng như mong muốn của các cơ quan, đơn vị hữu quan và của chính các anh chị học viên… vì vậy, chúng tôi mong muốn nhận được sự chia sẻ, phối hợp của các đồng chí để Nhà trường hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ giảng dạy và hoàn thiện hơn nữa nội dung chương trình đào tạo.
Đồng thời, Phó Hiệu trưởng Trường CBTT cũng đề nghị các học viên khắc phục những khó khăn, thu xếp công việc hợp lý để tập trung tối đa vào việc học tập, nghiêm túc chấp hành nội quy, quy chế của Nhà trường. Đồng thời, các đồng chí học viên cần tăng cường trao đổi, thảo luận với giảng viên, tham gia tích cực bài thực hành tình huống và tích cực tự nghiên cứu để nâng cao chất lượng của khóa học. Trong các buổi học, nhất là các buổi thảo luận, tất cả những vấn đề trong quá trình học tập cũng như thực tiễn thực hiện nhiệm vụ có những vướng mắc, khó khăn, những nội dung chưa rõ trong giáo trình hay những vướng mắc, bất cập trong các quy định pháp luật, đề nghị các đồng chí nêu rõ để cùng thảo luận, giúp cho các đồng chí nâng cao được nhận thức, bổ sung thêm kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ phục vụ tốt nhất nhiệm vụ được giao.
Luật Tố cáo năm 2018 đã dành Chương VI, gồm 12 điều quy định cụ thể việc bảo vệ người tố cáo nhằm bảo vệ, khuyến khích, động viên cá nhân, công dân dũng cảm đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ lợi ích nhà nước, cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời, thể hiện rõ quan điểm bảo vệ người tố cáo là trách nhiệm của Đảng, nhà nước và cả hệ thống chính trị, thể hiện đúng nguyên tắc nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Theo quy định của Luật, bảo vệ người tố cáo bao gồm các biện pháp cụ thể như: bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị trí công tác, vị trí việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (gọi chung là người được bảo vệ). Thông tin cá nhân của người tố cáo được bảo vệ bí mật, trừ trường hợp người tố cáo tự tiết lộ. Khi có căn cứ cho rằng vị trí công tác, vị trí việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của tố cáo và người thân thích của người tố cáo đang bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại ngay tức khắc do việc tố cáo hành vi vi phạm gây ra, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác tự quyết định hoặc theo đề nghị của người tố cáo quyết định việc áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết.
Như vậy, so với Luật Tố cáo 2011 trước đây thì Luật Tố cáo 2018 đã xây dựng những quy định khá hiệu quả cho việc bảo vệ người tố cáo, tạo cơ sở thuận lợi khuyến khích công dân, cá nhân dũng cảm đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong các biện pháp bảo vệ người tố cáo hiện nay còn có nhiều quan điểm và quy định khác nhau. Khi bàn về bảo vệ vị trí công tác, vị trí việc làm của người tố cáo vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng. Đặc biệt, là câu chuyện xác định thời điểm bảo vệ người tố cáo không rõ ràng, các quy định còn chồng chéo gây ra khó khăn trong thực tiễn áp dụng để bảo vệ vị trí công tác, vị trí việc làm cho người tố cáo.
Theo quy định tại Điều 3 Thông tư số 03/2020/TT-BNV ngày 21/7/2020 của Bộ Nội vụ quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ ví trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức:
“Bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức là việc bảo vệ công việc gắn với chức danh, chức vụ, vị trí việc làm của cán bộ, công chức; công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý của viên chức trong quá trình giải quyết tố cáo”.
Theo quy định trên thì thời điểm bảo vệ vị trí công tác, vị trí việc làm của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức là trong quá trình giải quyết tố cáo. Theo khoản 7 Điều 2 Luật Tố cáo 2018 quy định: “Giải quyết tố cáo là việc thụ lý, xác minh, kết luận nội dung tố cáo và xử lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo”. Nếu căn cứ theo quy định tại Điều 3 của Thông tư số 03/2020/TT-BNV ngày 21/7/2020 của Bộ Nội vụ thì thời điểm áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức đối với vị trí công tác, vị trí việc làm được tính kể từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo ban hành được quyết định thụ lý tố cáo và chấm dứt khi có quyết định xử lý kết luận nội dung tố cáo.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Tố cáo 2018 về xem xét, quyết định bảo vệ người tố cáo: “1. Khi nhận được đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và xét thấy đề nghị bảo vệ là có căn cứ, có tính xác thực hoặc trong quá trình giải quyết tố cáo, người giải quyết tố cáo thấy có căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật này thì người giải quyết tố cáo kịp thời quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ theo thẩm quyền hoặc đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết”.
Như vậy, theo quy định của Luật Tố cáo 2018 khi nhận được văn bản đề nghị bảo vệ của người tố cáo, cơ quan có thẩm quyền sẽ có trách nhiệm xem xét văn bản đề nghị. Nếu có căn cứ người tố cáo đang bị trù dập hoặc đe doạ trù dập ngay tức khắc sẽ phải áp dụng biện pháp bảo vệ cho người tố cáo ở bất cứ giai đoạn nào không chỉ trong quá trình giải quyết. Việc có áp dụng biện pháp bảo vệ hay không hoàn toàn căn cứ vào tình trạng của người tố cáo thông qua xem xét văn bản đề nghị. Nên nếu trong quá trình giải quyết mà người tố cáo có văn bản đề nghị bảo vệ, nhưng không có căn cứ bị trù dập thì cũng không áp dụng biện pháp bảo vệ. Luật Tố cáo không quy định thời điểm bảo vệ mà căn cứ vào tình trạng của người tố cáo để áp dụng biện pháp bảo vệ. Quy định bảo vệ người tố cáo của Luật Tố cáo 2018 được áp dụng chung cho tất cả các trường hợp không chỉ đối với vị trí việc làm, vị trí công tác của người tố cáo.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Trong trường hợp giữa Luật Tố cáo 2018 và Thông tư 03/2020 có quy định khác nhau về thời điểm bảo vệ vị trí việc làm, vị trí công tác của người tố cáo thì căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 156 áp dụng quy định của Luật Tố cáo 2018. Xét về khía cạnh thực tiễn, việc áp dụng quy định của Luật Tố cáo 2018 không quy định thời điểm bảo vệ mà căn cứ vào tình trạng của người tố cáo để quyết định việc bảo vệ cũng sẽ bảo vệ được toàn diện cho người tố cáo hơn.
Rõ ràng, các quy định về bảo vệ người tố cáo hiện nay còn có sự chồng chéo. Tuy nhiên, cũng thấy được quy định của Luật Tố cáo 2018 đã hoàn thiện hơn so với quy định trước đây, tạo nên hành lang pháp lý thuận lợi bảo vệ được toàn diện cho người tố cáo, khuyến khích cá nhân, công dân dũng cảm đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước, cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Đào Thảo Ly, giảng viên, Khoa Nghiệp vụ II
Tham gia buổi tiếp, về phía Thanh tra Chính phủ Việt Nam có lãnh đạo các cục, vụ, đơn vị: Vụ Tổ chức Cán bộ, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Kế hoạch – Tổng hợp, Văn phòng Đảng – Đoàn thể, Văn phòng, Trường Cán bộ Thanh tra. Về phía Đoàn cán bộ Thanh tra Campuchia có đại diện lãnh đạo Tổng cục, Cục thuộc Bộ Thanh tra; Chánh Thanh tra một số tỉnh, thành phố và đại diện Cấp Trung ương.

Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng gần gũi, có mối quan hệ đoàn kết hữu nghị truyền thống, lâu đời. Mối quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp này đã được các thế hệ lãnh đạo và Nhân dân hai nước dày công vun đắp, là tài sản vô giá của hai dân tộc mà các thế hệ mai sau cần giữ gìn, vun đắp. Việt Nam chân thành mong muốn cùng Campuchia đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội bền vững, vì lợi ích của Nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Phát biểu tại buổi tiếp, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Dương Quốc Huy nhấn mạnh, từ năm 2003, mối quan hệ giữa Thanh tra Chính phủ Việt nam và Bộ Thanh tra Campuchia luôn được quan tâm gây dựng và liên tục được củng cố. Hai cơ quan đã có 4 lần ký kết Bản ghi nhớ hợp tác vào các năm 2005, 2012, 2016 và 2023. Trong 20 năm qua, hai bên thường xuyên trao đổi các đoàn đại biểu để chia sẻ, học tập nhiều kinh nghiệm hay, thực tiễn tốt trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở mỗi nước. Thanh tra Chính phủ Việt Nam cũng vui mừng được lãnh đạo Bộ Thanh tra Campuchia gửi gắm nhiều lớp cán bộ Thanh tra Campuchia sang Việt Nam tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn tại Trường Cán bộ Thanh tra.
Phó Tổng Thanh tra Chính phủ đề nghị lãnh đạo và các báo cáo viên Trường Cán bộ Thanh tra dành sự quan tâm cao nhất để hoạt động trao đổi nghiệp vụ được tổ chức chu đáo, hiệu quả, liên tục có những điều chỉnh và cập nhật cần thiết để ngày càng hoàn thiện chương trình bồi dưỡng cho cán bộ thanh tra nước Bạn. Qua đó, vừa giúp các cán bộ Thanh tra Campuchia được trang bị kiến thức, kỹ năng tốt trong công tác thanh tra, vừa nắm bắt được những kinh nghiệm hay rút ra từ thực tiễn công tác thanh tra ở Việt Nam. Đặc biệt, trên hết là có hiểu biết tốt về đất nước, con người Việt Nam, về mối quan hệ hữu nghị, hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và Campuchia.


“Tôi tin tưởng rằng với sự quan tâm sát sao của lãnh đạo Thanh tra Chính phủ, của Trường Cán bộ Thanh tra, Vụ Hợp tác quốc tế, với sự nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ báo cáo viên, hoạt động trao đổi nghiệp vụ nâng cao năm 2023 sẽ thành công tốt đẹp. Tôi cũng mong muốn các cán bộ Thanh tra Campuchia trao đổi với Trường Cán bộ Thanh tra và các cơ quan Thanh tra địa phương nơi Đoàn sẽ đến thăm những kinh nghiệm hay, thực tiễn tốt trong công tác thanh tra ở Campuchia. Qua đó, hai Bên được học hỏi lẫn nhau, cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”, Phó Tổng Thanh tra Dương Quốc Huy chia sẻ.

Ông cũng bày tỏ tin tưởng rằng, sau khi tham dự hoạt động trao đổi nghiệp vụ nâng cao tại Việt Nam, trên cương vị công tác của mình, các bạn đồng nghiệp Campuchia sẽ luôn là cầu nối hữu nghị, cùng Thanh tra Chính phủ Việt Nam vun đắp cho quan hệ hữu nghị hợp tác tốt đẹp Việt Nam – Campuchia; vun đắp cho quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Thanh tra Chính phủ Việt Nam và Bộ Thanh tra Campuchia ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, luôn là biểu hiện sinh động cho quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa Việt Nam và Campuchia.
Thay mặt Đoàn cán bộ Thanh tra Campuchia, bà Hem Marina, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thanh tra, Bộ Thanh tra Campuchia gửi lời cảm ơn sâu sắc đến lãnh đạo Thanh tra Chính phủ Việt Nam vì sự đón tiếp chu đáo, nhiệt tình, nồng hậu.


Bà cho biết, Bộ Quan hệ với Quốc hội Thượng viện và Thanh tra Campuchia được đổi tên thành Bộ Thanh tra Campuchia để tập trung chủ yếu và đi sâu vào công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu tố và phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, khẳng định sẽ tiếp tục thực hiện các Bản ghi nhớ đã ký với cơ quan Thanh tra Việt Nam.
Bên cạnh đó, bà cũng mong muốn chuyến thăm, làm việc và trao đổi nghiệp vụ nâng cao tại Việt Nam sẽ thành công tốt đẹp, góp phần củng cố, nâng cao quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa hai cơ quan nói riêng và hai đất nước nói chung.
Việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 đã góp phần hoàn thiện các cơ chế, chính sách, trình tự, thủ tục trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và khắc phục tối đa những hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, triển khai, nhận thấy một số quy định của Luật còn những khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục được hoàn thiện.
Một số khó khăn, vướng mắc
Một là, theo quy định tại khoản 5 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 29 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2020 thì: “…trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản và các tài liệu khác phải được chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa”. Theo quy định trên thì thời gian 24 giờ là thời hạn liên tục (cả giờ hành chính và ngoài giờ hành chính, ngày nghỉ, lễ). Tuy nhiên, trong trường hợp người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính vào ngày nghỉ, lễ, tết thì việc chuyển biên bản và hồ sơ đề nghị người có thẩm quyền xử phạt sẽ gặp khó khăn, trong khi có những hành vi vi phạm nếu không lập biên bản vi phạm hành chính ngay thì việc tìm đối tượng để lập biên bản là rất khó.
Hai là, điểm b khoản 4 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 65 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định “Hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày thông báo lần thứ hai nếu người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp không đến nhận thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, người có thẩm quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”. Tuy nhiên, việc quy định như trên sẽ dẫn đến có một số trường hợp khi hết thời hạn 01 năm thì một số hàng hóa là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính sẽ bị hết hạn sử dụng hoặc bị hư hỏng, gây khó khăn trong quá trình xử lý trong thực tiễn.
Ba là, Theo quy định tại khoản 8 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 64 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2020 thì “Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày tạm giữ; trường hợp vụ việc phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn tạm giữ không quá 10 ngày làm việc, kể từ ngày tạm giữ”
Điểm a khoản 1 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định “vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật này”.
Như vậy, trong trường hợp việc tạm giữ được thực hiện trước khi lập biên bản vi phạm hành chính thì khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì sẽ bị quá thời hạn tạm giữ 02 ngày. Quy định về thời hạn tạm giữ như trên là quá ngắn, gây không ít khó khăn trong quá trình xử lý vụ việc, đặc biệt là việc tạm giữ, thực hiện giám định về hàng hóa. Vì đối với các trường hợp để lấy mẫu kiểm nghiệm, giám định thì thời hạn thường trên 10 ngày mới có kết quả.
Bốn là, tại Điều 9 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định có 08 tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, các tình tiết giảm nhẹ phần lớn còn quy định khá chung chung, định tính và chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trên thực tế như: “Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại”; “Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính”… Do đó, khi căn cứ các quy định nói trên, người có thẩm quyền xử phạt có tâm lý “sợ sai” nên không áp dụng cho “an toàn”, đồng thời dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất trong việc áp dụng quy định của pháp luật.
Một số kiến nghị, đề xuất
Thứ nhất, tại Điều 2, Luật Xử lý vi phạm hành chính cần bổ sung quy định đối với các khái niệm về yếu tố lỗi trong vi phạm hành chính (gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý), mức độ của hành hành vi (như ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng…) để cơ quan chức năng có căn cứ xác định.
Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ (hoặc cả tăng nặng) tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng định lượng, cụ thể, tránh tâm lý “sợ sai” khi áp dụng của cán bộ thực thi pháp luật hoặc tình trạng mỗi nơi áp dụng một kiểu, thiếu thống nhất.
Thư ba, quy định lại thời gian chuyển biên bản vi phạm hành chính (tại khoản 5 Điều 58) trong trường hợp không thuộc thẩm quyền xử lý từ 24 giờ lên 72 giờ để cơ quan thực thi pháp luật đủ thời gian hoàn thiện hồ sơ và chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt.
Thứ tư, ban hành quy định cụ thể về giá thị trường của địa phương tại thời điểm xảy ra vi phạm tại Điều 60 của Luật Xử lý vi phạm hành chính để xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt, thẩm quyền tịch thu và xử lý.
Thứ năm, quy định lại việc niêm phong tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 5b Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng “khi thực hiện việc tạm giữ, người lập biên bản, người có thẩm quyền tạm giữ có thể niêm phong tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ trong trường hợp xét thấy cần thiết trừ các trường hợp…”.
Thứ sáu, tại điểm b khoản 4 Điều 126 của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cần giảm thời gian thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đối với các tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ trong trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp từ 01 năm xuống còn 30 ngày như Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 trước đây là phù hợp.
Bên cạnh đó, cần bổ sung các căn cứ để tiến hành biện pháp khám người, khám phương tiện vận tải đồ vật, khám nơi cất dấu tang vật phương tiện vi phạm hành chính chi tiết cụ, thể theo hướng: Căn cứ do người thực hiện nhiệm vụ trực tiếp phát hiện như kiểm tra phương tiện, hàng hóa nhưng không có giấy tờ hợp pháp, đối tượng có biểu hiện như bỏ trốn, tiêu hủy, tẩu tán tang vật, phương tiện vi phạm; cản trở, chống đối lực lượng làm nhiệm vụ. Căn cứ thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thông qua tin báo của quần chúng nhân dân, qua phương tiện thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, qua lời khai của đối tượng vi phạm, qua biện pháp nghiệp vụ của ngành công an, có như vậy khi áp dụng trên thực tế mới bảo đảm chính xác, khách quan, bảo đảm đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền công dân, quyền con người và đồng thời góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Trần Thị Thu Hà, giảng viên, Khoa Nghiệp vụ II
Đó là một trong những thực trạng về giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam được đưa ra tại hội thảo đề tài khoa học cấp bộ cùng tên “Giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” do ThS Ngô Mạnh Hùng, Phó Cục trưởng Cục I, Thanh tra Chính phủ làm chủ nhiệm diễn ra ngày 29/11.

Theo ThS Ngô Mạnh Hùng, cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) ở Việt Nam thời gian qua có những ưu điểm và đạt được những kết quả, đã thiết lập được cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN khá toàn diện. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về PCTN luôn phải chịu sự giám sát, kiểm tra, thanh tra của nhiều chủ thể, đó là giám sát, kiểm tra của Đảng, giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước, thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý Nhà nước và giám sát của xã hội.
Cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra đã bảo đảm kiểm soát việc thực hiện các biện pháp PCTN từ nhiều phương phía, bảo đảm kiểm soát từ bên ngoài và kiểm soát bên trong hệ thống; kiểm soát chính trị, kiểm soát có tính quyền lực và kiểm soát của xã hội.
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về PCTN, các cấp ủy Đảng đã ban hành nhiều văn bản quy định về giám sát, kiểm tra của Đảng nói chung và giám sát, kiểm tra của Đảng về công tác PCTN nói riêng.
Thông qua giám sát, kiểm tra, thanh tra, các chủ thể đã phát hiện nhiều sơ hở, bất cập và vi phạm trong chính sách, pháp luật và việc thực hiện chính sách, pháp luật PCTN để có biện pháp chấn chỉnh và xử lý vi phạm kịp thời.
Mặt khác, hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN đã dần đi vào nề nếp; chất lượng hoạt động nghiệp vụ không ngừng được nâng cao.
Bên cạnh kết quả đạt được, cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN vẫn còn một số hạn chế, bất cập, cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN nằm ở nhiều văn bản khác nhau, một số quy định chưa chi tiết, thậm chí chồng chéo, mâu thuẫn nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để thực hiện thống nhất, còn một số bất cập trong quy định về giám sát của Quốc hội đối với công tác PCTN; hạn chế trong quy định về kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý Nhà nước đối với công tác PCTN
Thiếu quy định chi tiết giám sát của xã hội đối với công tác PCTN. Hiện nay, quy định về giám sát của xã hội đối với công tác PCTN mới chỉ tập trung vào giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu của cộng đồng. Trách nhiệm, phương thức, phạm vi giám sát của các thiết chế xã hội khác như báo chí, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề chưa được quy định rõ…
Việc thực hiện nhiệm vụ của một số chủ thể giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN vẫn còn hạn chế, bất cập. Ví dụ, giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với công tác PCTN vẫn còn những hạn chế, bất cập hoạt động giám sát công tác PCTN thông qua thẩm tra, xét báo cáo của Chính phủ, UBND các cấp thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, bất cập như: Việc thẩm tra mới chủ yếu dựa trên báo cáo của Chính phủ, UBND các cấp mà chưa sử dụng hết các nguồn thông tin hiện có (trên các phương tiện truyền thông, qua khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân, qua các cuộc kiểm tra, giám sát của các cơ quan đảng…); thiếu các căn cứ pháp lý để đánh giá đúng thực trạng tình hình tham nhũng đang diễn ra cũng như dự báo sát diễn biến tình hình tham nhũng trong thời gian tiếp theo nên một số giải pháp kiến nghị còn chung chung, chưa thực sự có tính thuyết phục cao.
Bên cạnh đó, việc thẩm tra, xét báo cáo về công tác PCTN còn gặp một số khó khăn như việc gửi tài liệu đôi khi còn chưa bảo đảm theo đúng quy định, dẫn đến thời gian dành cho việc nghiên cứu các báo cáo của các đại biểu Quốc hội còn chưa nhiều, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng ý kiến phát biểu. Việc phối hợp thẩm tra chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra; việc chia sẻ thông tin, phân tích số liệu chưa gắn kết chặt chẽ giữa chính sách về ngân sách và các chính sách chuyên ngành trong các ngành, lĩnh vực.
Hoạt động chất vấn, giải trình còn một số tồn tại cần nghiên cứu hoàn thiện trong thời gian tới như: Thời gian dành cho hoạt động chất vấn chưa đảm bảo để tất cả các chất vấn của đại biểu Quốc hội đều được trả lời trực tiếp tại hội trường; vẫn còn hiện tượng đại biểu hỏi ngoài phạm vi chất vấn; câu hỏi còn trùng lặp về nội dung, không đi thẳng vào trọng tâm, thông tin đưa ra thiếu chính xác.
Hoạt động giám sát chuyên đề vẫn còn một số tồn tại hạn chế, một số chuyên đề giám sát có phạm vi khá rộng, có tính chuyên sâu cao, trong khi thời gian và nguồn lực thực hiện của các cơ quan của Quốc hội còn hạn chế; một số đại biểu được cử tham gia đoàn giám sát có chuyên môn chưa phù hợp với nội dung của chuyên đề giám sát; chất lượng tham gia, góp ý kiến đánh giá, phản biện của một số thành viên Đoàn giám sát còn hạn chế.
Hiệu quả một số cuộc giám sát, kiểm tra, thanh tra chưa cao, một số cuộc còn mang tính hình thức, có biểu hiện nể nang, né tránh trong việc xem xét, đánh giá, kết luận về trách nhiệm của đối tượng giám sát, kiểm tra, thanh tra; việc triển khai thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh tra chưa đồng bộ giữa các ngành, các cấp và địa phương; nội dung một số cuộc giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN chưa toàn diện.
Việc phát hiện và xử lý hành vi vi phạm, nhất là phát hiện hành vi tham nhũng thông qua giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN còn ít. Các vụ việc tham nhũng, kinh tế, tiêu cực được phát hiện và xử lý trong thời gian qua chủ yếu thông qua việc các cơ quan chức năng tiếp nhận thông tin, xử lý đối với các vụ việc cụ thể mà không phải từ các báo cáo kết quả giám sát, kết luận thanh tra, kiểm tra công tác PCTN.
Góp ý tại hội thảo, các đại biểu đã đánh giá đề tài cơ bản đáp ứng được mục đích đề ra; thực trạng về giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN được chủ nhiệm đưa ra sát với thực tế hiện nay, đề tài cũng đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế trong giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác PCTN.
Tuy nhiên, các đại biểu yêu cầu cần làm rõ thêm nội dung công tác PCTN là gì? Làm rõ hơn việc giám sát, kiểm tra, thanh tra trong công tác PCTN; bổ sung phần nhận xét, đánh giá chung; bổ sung thêm thực tiễn của các thiết chế xã hôi cũng như những bất cập hạn chế về lĩnh vực này…
(Nguồn: Thanhtra.com.vn)
