Chủ trương, định hướng của Đảng và quy định của pháp luật
về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn được thể hiện
trong nhiều văn bản, Nghị quyết, Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, cũng như Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Việc kiểm soát được đặt ra để nhằm bảo đảm sự tuân thủ của các đối tượng
kê khai, giúp Nhà nước quản lý được tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê
khai,nhằm phòng ngừa,sớm phát hiện và ngăn chặn hành vi tham nhũng. Một trong
những điểm mới về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (sau đậy gọi tắt là Luật PCTN 2018) là việc
giao cho một số cơ quan, đơn vị chức năng kiểm soát tài sản, thu nhập đối với
người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền. Điều này giúp cho việc quản lý bản
kê khai được tập trung, việc theo dõi, giám sát, kiểm soát và xác minh được hiệu
quả hơn.
Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 đã quy định cụ thể về
thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong kiểm soát
tài sản, thu nhập tại Điều 30, Điều 31, Điều 32. Điều này đã khắc phục được hạn
chế của Luật PCTN 2005 (SĐBS 2007, 2012) khi giao việc quản lý bản kê khai tài
sản, thu nhập cho đơn vị, bộ phận phụ trách công tác tổ chức cán bộ của cơ
quan, tổ chức nơi người kê khai công tác quản lý. Đối với người có nghĩa vụ kê
khai thuộc diện cấp ủy quản lý thì Ban Thường vụ cùng cấp quản lý. Do vậy, việc
kiểm soát tài sản, thu nhập trước đây, mặc dù việc kê khai được tiến hành đầy đủ,
đúng thời hạn, nhưng vẫn bị đánh giá là hình thức, không hiệu quả, vì chúng ta
chưa có cơ chế cụ thể để giám sát, kiểm soát, hay việc xác minh còn khó khăn đối
với việc kê khai tài sản, thu nhập đó. Do vậy Luật PCTN 2018 đã có những quy định
mới, đảm bảo việc quản lý tập trung bản kê khai tài sản, thu nhập, cụ thể như sau:
1. Thanh tra Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của người
giữ chức vụ từ Giám đốc Sở và tương đương trở lên công tác tại Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp
công lập, cơ quan, tổ chức do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, doanh
nghiệp nhà nước; người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập (sau đây gọi là
người có nghĩa vụ kê khai) thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
2. Thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của người có
nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà
nước thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền địa phương, trừ trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ kiểm soát
tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ chức,
đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
này.
4. Cơ quan giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác đại biểu
kiểm soát tài sản, thu nhập của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và người
có nghĩa vụ kê khai khác thuộc thẩm quyền quản lý cán bộ của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
5. Văn phòng Quốc hội kiểm soát tài sản, thu nhập của người
có nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn
phòng Quốc hội, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
6. Văn phòng Chủ tịch nước kiểm soát tài sản, thu nhập của
người có nghĩa vụ kê khai công tác tại Văn phòng Chủ tịch nước.
7. Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Kiểm toán Nhà nước kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai
công tác tại Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước.
8. Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ quan
Trung ương của các tổ chức chính trị – xã hội kiểm soát tài sản, thu nhập của
người có nghĩa vụ kê khai công tác trong hệ thống cơ quan, tổ chức đó.
Quy định của Luật PCTN 2018 về thẩm quyền và trách nhiệm
của cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập, một mặt sẽ chuyên nghiệp hóa, tăng cường
vai trò, trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong phòng ngừa tham nhũng,
mặt khác đây cũng là một bảo đảm pháp lý để nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng nói chung, thông qua thực hiện kiểm soát tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, quy định trên cũng đang đặt
ra một số vấn đề sau:
Một
là, có nhiều cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập cùng kiểm soát đối với một đối tượng.
Trong
bộ máy Nhà nước hiện nay, có những người vừa giữ chức vụ trong bộ máy chính
quyền địa phương, vừa giữ chức vụ trong tổ chức Đảng. Một số cán bộ giữ các
chức vụ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Theo Quy định số 85-QĐ/TW
ngày 23/05/2017 của Bộ Chính trị thì chủ thể kiểm tra việc kê khai tài sản của
những cán bộ này là do Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy Ban kiểm tra Trung ương.
Theo quy định số 126-QĐ/TƯ ngày 28/02/2018 của Bộ Chính trị thì kê khai tài sản
và thẩm tra, xác minh tính trung thực của cán bộ, đảng viên, là nội dung thuộc
vấn đề chính trị của cán bộ, đảng viên và thẩm quyền thẩm tra, xác minh thuộc
cấp ủy quản lý cán bộ, đảng viên đó. Như vậy, nếu theo quy định của Luật PCTN
thì các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của Nhà nước, tổ chức chính trị –
xã hội có thẩm quyền và có thể chủ động kiểm tra, xác minh tài sản, thu nhập
của tất cả các đối tượng thuộc phạm vi kiểm soát của mình, bao gồm cả cán bộ,
đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy quản lý. Nhưng với Quy
định số 85 và Quy định số 126 nêu trên, thì việc kiểm tra, xác minh tài sản,
thu nhập của cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy quản
lý đều thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan Đảng. Vấn đề này có thể dẫn đến sự
chồng chéo, trùng lặp trong công tác kiểm soát.
Hai là, có sự chưa rõ ràng trong phân định thẩm quyền
kiểm soát giữa một số cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập và chưa bao quát hết
các đối tượng cần phải kiểm soát.
Theo quy định tại Điều
30 của Luật PCTN, Thanh tra Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của người giữ
chức vụ từ Giám đốc Sở và tương đương trở lên công tác tại Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp công lập, cơ
quan, tổ chức do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, doanh nghiệp nhà
nước. Thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai
công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền
quản lý của chính quyền địa phương, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền kiểm soát
của Thanh tra Chính phủ. Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ kiểm
soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ
chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền kiểm soát
của Thanh tra Chính phủ. Một số người có nghĩa vụ kê khai không xác định được
cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập, khó khăn ngay từ việc giao
nộp bản kê khai cho cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập. Mặt khác, những người
phải kê khai tài sản, thu nhập trong đơn vị sự nghiệp do Thủ tướng Chính phủ
thành lập, nhưng đơn vị đó không thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ thì chỉ những người giữ chức vụ từ Giám đốc Sở và tương đương trở lên
mới chịu sự kiểm soát của Thanh tra Chính phủ, còn những người khác không có cơ
quan nào kiểm soát (Ví dụ các Trường đại học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh…). Cũng giống như vậy, trong hệ thống các cơ quan
Đảng, Điều 30 Luật PCTN 2018 cũng chưa xác định được cụ thể một số đối tượng có
nghĩa vụ kê khai sẽ do cơ quan nào kiểm soát (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, các Học viện thành viên…).
Tóm lại, mặc dù Luật PCTN 2018 đã được tổ chức
thực hiện, cùng với đó Nghị định 59/2019/NĐ-CP và Nghị định 130/2020/NĐ-CP cũng
đã có những quy định cụ thể chi tiết thi hành Luật, tuy nhiên, với những vướng
mắc trên, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được Quy chế phối hợp giữa các cơ quan
có thẩm quyền trong kiểm soát tài sản, thu nhập, trên tinh thần giải quyết được
những vấn đề sau:
Thứ
nhất, xác định, phân định được thẩm quyền của các
cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập nói chung và giữa cơ quan Đảng, với cơ quan
kiểm soát tài sản, thu nhập khác nói riêng. Trên cơ sở bảo đảm thực hiện đúng
các quy định của Đảng về phân cấp quản lý cán bộ, đảm bảo việc phối hợp thực hiện
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và theo phấp cấp quản lý cán bộ,
như: giao cho Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm soát tài sản, thu nhập của những
người thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý cũng như những người công tác
trong các cơ quan của Đảng ở Trung ương, ở địa phương có thể giao cho Ủy ban Kiểm
tra tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra huyện ủy theo phân cấp quản lý cán bộ. Đối với hệ thống cơ quan thanh tra cũng vậy, Thanh
tra Chính phủ kiểm soát đối tượng có phụ cấp 0,9 trở lên công tác tại các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan đơn vị, tổ chức khác do
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trừ những trường hợp quy định
thuộc thẩm quyền của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, người có nghĩa vụ kê khai tài
sản, thu nhập công tác tại Thanh tra Chính phủ…, với thanh tra cấp tỉnh cũng vậy, sẽ kiểm soát
tài sản, thu nhập của những người có nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ
chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền địa
phương, trừ những trường hợp thuộc thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ…
Thứ
hai, phải làm rõ được nghĩa vụ kê khai tài sản của
một số trường hợp mang tính chất đặc thù, để trên cơ sở đó xác định thẩm quyền
kiểm soát tài sản được giao cho cơ quan nào. Ví dụ: Chủ tịch Hội đồng
quản trị, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch hội đồng thành viên, Phó Chủ
tịch Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Thành viên Hội đồng
quản trị, Thành viên Hội đồng thành viên, Trưởng Ban Kiểm soát, Kế toán trưởng
doanh nghiệp do Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước trực tiếp làm đại diện chủ sở hữu sẽ
giao cho Thanh tra Chính phủ là cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập
là cụ thể, phù hợp. Điều này phải được quy định cụ thể, để là cơ sở tổ chức thực
hiện.
Thứ
ba, phải xây dựng được quy chế, trong đó xác định
trách nhiệm phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập
trong việc thu nhận, tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin về kiểm soát tài sản,
thu nhập thuộc phạm vi quản lý của mình, đặc biệt phân định rõ vai trò, trách
nhiệm trong mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong xác minh tài sản
thu nhập (cơ quan nào chủ trì, cơ quan nào phối hợp, phối hợp trong tổ chức, bố
trí người tham gia hoạt động xác minh tài sản, thu nhập).
Để kịp thời thực hiện công tác kê khai, kiểm
soát tài sản, thu nhập theo Luật PCTN 2018, ngày 19 tháng 02 năm
2021Thanh tra Chính phủ đã ban hành Công văn 252/2021về
kiểm soát tài sản, thu nhập, trong đó hướng dẫn: các trường hợp chưa xác định
được cơ quan nào kiểm soát tài sản, thu nhập thì tạm thời chưa bàn giao, chờ thực
hiện theo hướng dẫn cụ thể tại Quy chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền
trong kiểm soát tài sản, thu nhập được quy định tại khoản 2
Điều 1 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP của Chính phủ. Do vậy, để bảo đảm
việc triển khai thực hiện công tác kiểm soát tài sản, thu nhập theo yêu cầu của
Luật PCTN, chúng ta phải sớm xây dựng và ban hành các quy định cụ thể, giải quyết
những vướng mắc như phân tích trên./.
TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Trưởng Khoa Nghiệp
vụ II – Trường Cán bộ Thanh tra
|
|
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn http://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)