Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và giải quyết tố cáo nói riêng. Người đã từng nói:“Đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của họ. Do đó, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ ngày càng được củng cố tốt hơn”. Vì đây là hình thức thể hiện nền dân chủ trực tiếp để người dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các vi phạm pháp luật khác. Để khuyến khích công dân đấu tranh với các hành vi vi phạm trong xã hội, chúng ta phải tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi bảo vệ người tố cáo, để họ không trở thành đối tượng bị “đe dọa”, “trả thù”, “trù dập”. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật tố cáo hiện nay về bảo vệ người tố cáo vẫn còn một số điểm chưa hợp lý, nên gây ra không ít khó khăn cho công tác bảo vệ người tố cáo trong thực tế. Cụ thể:
Thứ nhất, về bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo
Có thể nói, đây là một nguyên tắc được đặt ra trong công tác giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, do việc tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo có nhiều bộ phận khác nhau nên nếu cán bộ, công chức và những người có liên quan không được quán triệt sâu sắc, nâng cao ý thức về việc giữ gìn bí mật thông tin của người tố cáo thì quy định này khó có thể đảm bảo. Nhiều trường hợp, vì muốn bao che, có thái độ nể nang nên thông tin về người tố cáo vẫn bị tiết lộ. Hiện nay, theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 31/2019 có quy định về chế tài xử lý kỷ luật hình thức “cảnh cáo” đối với người có thẩm quyền giải quyết tố cáo làm lộ thông tin cá nhân của người tố cáo: “Tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông tin khác làm lộ danh tính của người tố cáo”. Với quy định này thì trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin chỉ thuộc về một mình người có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Vậy cán bộ tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo ví dụ như: cán bộ tiếp công dân ở các Trụ sở tiếp dân, cán bộ tiếp nhận của cơ quan, đơn vị khác trong trường hợp cơ quan đó không có thẩm quyền giải quyết,… nếu làm lộ danh tính người tố cáo sẽ bị xử lý như thế nào, thiết nghĩ cần có thêm quy định làm rõ hơn cho những trường hợp này, để quy định về bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo được hoàn thiện hơn.
Thứ hai, về căn cứ để yêu cầu bảo vệ người tố cáo
Theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Tố cáo 2018 quy định:“khi có căn cứ” cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm, hoặc bị trù dập, phân biệt, đối xử về việc làm, vị trí công tác của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo thì tùy từng trường hợp họ có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan công an, cơ quan, tổ chức có liên quan áp dụng biện pháp bảo vệ. Tuy nhiên, việc hiểu như thế nào là “có căn cứ” theo quy định trên đang còn là một vấn đề khó xác định vì quy định này mang tính định tính không liệt kê hoặc định lượng được ở mức độ nào, những biểu hiện nào, những hành vi nào thì được coi là “có căn cứ”. Vì vậy, trên thực tế có thể dẫn đến một trong hai tình huống:
Một là, việc tố cáo chưa thực sự có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, chưa thực sự có thể xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm… của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo nhưng khi được yêu cầu, người có thẩm quyền, trách nhiệm vẫn quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ. Trường hợp này không những gây tốn kém không cần thiết mà còn gây ra những ảnh hưởng không tốt về mặt tâm lý, dư luận xã hội,…
Hai là, tình huống thực sự rất cần phải bảo vệ người tố cáo nhưng có thể do quan diểm chưa đủ “căn cứ” nên người có thẩm quyền, trách nhiệm chưa kịp thời áp dụng các biện pháp bảo vệ dẫn đến hậu quả việc bảo vệ người tố cáo không đạt yêu cầu theo quy định. Từ đó, nhận thấy cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng, tổng kết thực tiễn, rà soát để làm rõ những tình huống, hành vi có thể được coi là “căn cứ”, đồng thời cũng đưa một số tiêu chí cho việc được coi là có “căn cứ”, sau đó hướng dẫn thống nhất áp dụng cho việc bảo vệ người tố cáo trên phạm vi toàn quốc.
Thứ ba, về thực hiện trách nhiệm phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong bảo vệ người tố cáo
Theo quy định của Luật Tố cáo và Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc về người giải quyết tố cáo, sau đó là trách nhiệm của các cơ quan phối hợp như cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan công an có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan khác. Có thể nói về mặt nguyên tắc, việc quy định như vậy đã cơ bản khắc phục được tình trạng người tố cáo “phải tự mình tìm người, cơ quan, tổ chức để bảo vệ mình”, hạn chế được khả năng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, nếu việc phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan không tốt, thì việc bảo vệ người tố cáo vẫn khó có thể đạt yêu cầu trên thực tiễn, nhất là trong các tình huống bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo, nên cần quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan hơn trong từng trường hợp cụ thể.
Thứ tư, vấn đề về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, phương tiện, kinh phí bảo vệ người tố cáo hiện nay cũng là một trong những khó khăn đặt ra trong bảo vệ người tố cáo
Hiện nay, liên quan đến việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người tố cáo thì vấn đề nguồn kinh phí, nhân lực, cơ sở vật chất bảo vệ người tố cáo không được quy định rõ ràng, cụ thể nguồn kinh phí bảo vệ người tố cáo và người thân thích của người tố cáo sẽ trích từ nguồn ngân sách nào và cơ quan nào trực tiếp chi trả, gây khó khăn khi thực hiện áp dụng.
Như vậy, quy định về vấn đề bảo vệ người tố cáo hiện nay, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Nhìn chung, các quy định này chưa thực sự cụ thể, rõ ràng, nặng về hình thức, xét thấy chúng ta cần phải có những quy định cụ thể hơn, để đáp ứng được yêu cầu trong việc bảo vệ người tố cáo, tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi khuyến khích công dân thực hiện các quyền Hiến định của mình theo quy định của pháp luật.
ThS. Đào Thảo Ly
Giảng viên Khoa Nghiệp vụ Giải quyết KNTC và PCTN
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bir hesabınız yoksa, gerekli bilgileri doldurarak Mostbet web sitesine kaydolabilirsiniz.
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn https://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)