TÓM TẮT KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI/ CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
Loại
đề tài: Chuyên đề khoa học
Tên
chuyên đề: “Kê khai tài sản, thu nhập – Những vấn đề thực tiễn đặt ra”.
Chủ
nhiệm chuyên đề: TS.Trần Thị
Thúy
Chức vụ: Giảng viên
Địa
chỉ: Khoa Quản lí nhà nước và Phòng, chống tham nhũng – Trường Cán bộ Thanh
tra.
Điện
thoại: 0912058081
Cơ
quan chủ trì chuyên đề: Trường Cán bộ Thanh tra
Cơ
quan và cá nhân phối hợp: Không
Thời
gian thực hiện: 10 tháng (từ tháng3 3/2017 đến tháng 12/2017).
1. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ
nhất: Mục đích của chuyên đề hướng đến việc phân tích làm rõ chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kê khai tài sản, thu nhập;
Thứ
hai: Phân tích làm rõ thực trạng kê khai tài sản, thu nhập trên cơ sở đó chỉ ra
những vấn đề thực tiễn đang đặt ra;
Thứ
ba: Trên cơ sở thực trạng kê khai tài sản, thu nhập và những vấn đề thực tiễn
đang đặt ra về “kê khai tài sản, thu nhập”, đưa ra những đánh giá về thuận lợi,
khó khăn trong việc giảng dạy nội dung này qua thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ thanh tra viên tại Trường Cán bộ Thanh tra. Đồng thời, có những kiến
nghị nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy nội dung “kê khai tài sản, thu nhập”.
2. Nội dung nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề chung về kê khai tài
sản, thu nhập.
Tài
sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp
luật nói riêng. Quan niệm tài sản, thu nhập đã được đề cập rất nhiều trong thực
tiễn khoa học pháp lý và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật ngay cả
trong các Điều ước quốc tế. Mặc dù có nhiều cách phân loại tài sản, thu nhập
nhưng chung quy tài sản, thu nhập chỉ tồn tại dưới hai hình thức là bằng tiền
và tài sản có giá trị. Tiền có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ, tiền mặt, tiền
séc… ; Tài sản có giá trị bất kể là vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Kê
khai tài sản, thu nhập là một khâu trong quá trình kiểm soát tài sản, thu nhập.
Kê khai tài sản, thu nhập được hiểu: “là việc ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác
các loại tài sản, thu nhập, biến động tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức,
viên chức, là một khâu trong kiểm soát tài sản, thu nhập mà Nhà nước sử dụng để
biết được từng hoạt động của cá nhân có thể tạo tài sản, thu nhập, hoặc bằng
cách khác là kiểm soát dòng tiền và những tài sản có giá trị bất kể là vật,
giấy tờ có giá và quyền tài sản mà cá nhân có được thông qua các loại hình hoạt
động có thể tạo nên tài sản, thu nhập nhằm phát hiện, ngăn chặn việc cán bộ,
công chức, viên chức nhận tiền, tài sản có giá trị trái quy định của pháp luật
hoặc sử dụng tài sản của mình để thực hiện hành vi tham nhũng”. Vì vậy, yêu cầu
kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức phải đảm bảo sự rõ
ràng, rành mạch các thông tin về tài sản, thu nhập và bảo sự trung thực trong
kê khai và trách nhiệm giải trình của người kê khai.
Trước
những tình hình tham nhũng, Đảng đã có chủ trương và Nhà nước đã thể chế hóa
thành những quy định cụ thể để triển khai thực hiện tạo nên những chuyển biến
tích cực cả về nhận thức và hành động nhằm minh bạch nguồn gốc tài sản,
thu nhập, phục vụ cho công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức và góp phần
phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng, bao gồm: Nghị quyết T.Ư 4, khóa XII
ngày 30 tháng 10 năm 2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; Bộ Chính trị ban hành Kết luận số
10-KL/TW ngày 26/12/2016, về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; Chỉ thị số 33-CT/TW ngày
03/01/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê
khai và kiểm soát việc kê khai tài sản; thực hiện việc minh bạch tài sản thu
nhập, tiến hành kê khai tài sản thu nhập định kỳ hàng năm theo Nghị định số
78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản thu nhập và
Thông tư số 08/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 hướng dẫn thi hành các quy định về
MBTSTN; Thực hiện Nghị quyết T.Ư 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng Kiểm
tra, giám sát kê khai tài sản, ngăn chặn tham nhũng, Bộ Chính trị ban hành Quy
định số 85-QĐ/TW, ngày 23-5-2017 của Bộ Chính trị về kiểm tra, giám sát việc kê
khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
Nội
dung điều chỉnh pháp luật về kê khai tài sản, thu nhập: quy định tại mục 4
Chương II của Luật Phòng, chống tham nhũng theo Luật số 27/2012/QH13 ngày
23/11/2012 và Chương II “Kê khai tài sản, thu nhập” (từ Điều 7 đến điều 12) của
Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 quy định chi tiết thực hiện về minh bạch
tài sản, thu nhập, các quy định của pháp luật về kê khai tài sản, thu nhập bao
gồm các nội dung sau:
–
Quy định về đối tượng kê khai tài sản, thu nhập
–
Quy định về những loại tài sản, thu nhập phải kê khai
–
Quy định về trình tự, thủ tục kê khai, tiếp nhận Bản Kê khai
–
Quy định về công khai bản kê khai tài sản, thu nhập
–
Quy định về nghĩa vụ giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm
–
Quy định về yêu cầu giải trình việc kê khai tài sản, thu nhập
–
Quy định về xác minh tài sản và thủ tục xác minh tài sản
–
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài
sản
–
Xử lý vi phạm các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập
–
Quản lý, khai thác, sử dụng bản kê khai
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng pháp luật kê khai tài
sản, thu nhập – Những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Qua
tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, các quy định
về PCTN nói chung và kê khai tài sản, thu nhập nói riêng là cần thiết và có
tính khả thi. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về kê khai tài sản, thu nhập
được rà soát, điều chỉnh, bổ sung đã đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu của
công tác PCTN, như: Đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập; Tài sản, thu nhập
phải kê khai; Trình tự, thủ tục kê khai, tiếp nhận Bản Kê khai; Quản lý, khai
thác, sử dụng bản kê khai. Với quy định quản lý, sử dụng Bản Kê khai, bước đầu
đã tạo ra cơ chế kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên,
khi triển khai thực hiện cho thấy “các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập
chưa đủ mạnh để kiểm soát tài sản, thu nhập; còn vướng mắc về trình tự, thủ tục
giải trình, xác minh tài sản, thu nhập; chưa có quy định về việc xử lý tài sản,
thu nhập không được giải trình một cách hợp lý…”[1]. Như vậy, có thể nói các
quy định kê khai tài sản, thu nhập vẫn tồn tại các nhược điểm.
Thực
trạng kê khai tài sản nói riêng và MBTSTN chung trong 10 năm thi hành Luật Phòng,
chống tham nhũng đạt được những thành tịu nhất định[2]: tỷ lệ kê khai tài sản,
thu nhập đúng thời hạn đã đạt 99,5%, công khai đạt tỷ lệ 98,3%. Qua 10 năm đã
xác minh được 4.859 trường hợp, phát hiện, xử lý kỷ luật 17 người kê khai tài
sản không trung thực. Ngoài ra, còn có 70 người bị xử lý kỷ luật do vi phạm quy
định về tổ chức thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập. Qua kết quả thực hiện
việc kê khai tài sản, thu nhập nêu trên cho thấy những ưu điểm của việc thực
hiện kê khai tài sản, thu nhập trong thời gian qua như sau:
Một
là, hầu hết đối tượng thuộc diện kê khai đã thực hiện kê khai tài sản, thu nhập
theo quy định.
Hai
là, bước đầu hình thành cơ sở tài liệu phục vụ xác minh về tài sản, thu nhập cá
nhân của người có chức vụ, quyền hạn.“Tính đến năm 2016 có khoảng 5 triệu Bản Kê
khai đang được quản lý tại các cơ quan, đơn vị, trong đó 2,2 triệu bản đã được
công khai”[3].
Ba
là, hình thành cơ sở pháp lý cho việc kê khai và công khai Bản Kê khai tài sản,
thu nhập.
Bốn
là, việc yêu cầu công khai, minh bạch tài sản, thu nhập đã phần nào tác động
đến suy nghĩ, nhận thức tham nhũng, tiêu cực.
Bên
cạnh những kết quả đạt được, công tác minh bạch tài sản thu nhập nói chung và
kê khai tài sản vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
Thứ
nhất, kê khai tài sản theo quy định thì người nào cũng kê khai nhưng phạm vi kê
khai hẹp nên việc kê khai giống như là cái bình thông nhau, bịt được đầu này
thì lại chạy sang đầu khác.
Thứ
hai, chống tham nhũng bằng việc xác minh tài sản thực tế vẫn còn thiếu và yếu.
Chỉ khi có dư luận, qua báo chí kiến nghị, phản ánh thì cơ quan công quyền mới
tiến hành xác minh làm rõ nguồn gốc tài sản của đối tượng cần kê khai.
Thứ
ba, công tác quản lý, theo dõi việc kê khai, công khai, xác minh về tài sản,
thu nhập chưa có tính hệ thống; ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm soát
các giao dịch về tài sản, kiểm soát thu nhập còn hạn chế.
Thứ
tư, công tác theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quy định
về minh bạch tài sản, thu nhập nói chung và kê khai tài sản, thu nhập nói riêng
của các cấp ủy đảng, người đứng đầu đơn vị chưa quyết liệt, chưa thường xuyên,
kịp thời dẫn đến việc tổng kết rút kinh nghiệm nâng cao hiệu quả, công tác chấn
chỉnh những hạn chế yếu kém trong tổ chức thực hiện chưa đạt được mục đích đặt
ra.
Thứ
năm, một số cơ quan, đơn vị chưa nắm đầy đủ trình tự, thủ tục kê khai và công
khai; còn lúng túng trong việc xác minh tài sản, thu nhập khi người kê khai về
hưu hoặc nghỉ công tác.
Thứ
sáu, khó khăn cho cơ quan chức năng trong thu hồi tài sản tham nhũng thông qua
việc kê khai tài sản, thu nhập.
3. Kết
quả chính đạt được
Với
định hướng công tác đào tạo, bồi dưỡng trong những năm gần đây, Nhà trường luôn
quan tâm đến việc “tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và rèn luyện kỹ năng
đáp ứng công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng”[4]. Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng phải tập trung đầu tư có chiều sâu cả về
chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng, phương pháp giảng dạy nghiệp vụ thanh tra nói
chung và nội dung kê khai tài sản nói riêng. Trên cơ sở phân tích nêu tại phần
kết luận, giảng viên xin nêu một số kiến nghị để nâng cao hơn nữa chất lượng
trong giảng dạy nội dung phòng, chống tham nhũng nói chung và “kê khai tài sản”
nói riêng, như sau:
Thứ
nhất, Thanh tra Chính phủ sớm hoàn thiện Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng
đặc biệt cần được sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản,
thu nhập hiện nay cho phù hợp với thực tiễn để tránh tình trạng khi giảng dạy
về nội dung quy định pháp luật người học nhận ra ngay sự mâu thuẫn, sự không
phù hợp của các quy định pháp luật dẫn đến tâm lý coi thường pháp luật.Cụ thể
như sau:
Một
là, bổ sung thuật ngữ “Minh bạch và kiểm soát ” nhằm tạo ra khâu đột phá để
khắc phục hiện trạng hiện nay.
Hai
là, hoàn thiện quy định về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập; đối tượng kê
khai; hình thức và thời điểm kê khai; công khai Bản Kê khai.
Thứ
hai, Đối với cơ quan, Bộ ngành, địa phương
–
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về minh
bạch tài sản, thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc cơ quan, Bộ
ngành, địa phương đó.
–
Tăng cường, nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành song song với việc phát
huy tính tiền phong gương mẫu của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong
việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác MBTSTN. Tăng cường hướng
dẫn, thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các cơ quan, Bộ, ngành, địa phương
trong việc kê khai tài sản, thu nhập và báo cáo kết quả kê khai.
–
Chủ động xác minh các bản kê khai tài sản, thu nhập, nếu có phát hiện vi phạm
phải xử lý theo đúng quy định.
–
Thực hiện ý kiến hướng dẫn, chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ về việc xây dựng cơ
sở dữ liệu về minh bạch tài sản thu nhập. Nộp báo cáo kết quả kê khai tài sản
thu nhập của một số cơ quan, tổ chức đúng thời gian quy định.
–
Nâng cao vai trò của thủ trưởng cơ quan và cấp ủy đảng trong việc kê khai và
công khai nội dung Bản Kê khai tài sản, thu nhập.
– Tiếp tục thực hiện nghiêm túc các quy định về kê khai và
công khai Bản Kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
Thứ
ba, Đối với trường Cán bộ Thanh tra
Một
là, để tổng kết thực tiễn vào giảng dạy lý thuyết, cuối năm và 6 tháng đầu
năm sau, Nhà trường cần mời chuyên gia tại Cục Phòng, chống tham nhũng; Vụ Pháp
chế của Thanh tra Chính phủ… nói chuyện chuyên đề về phòng, chống tham nhũng
nói chung và công tác “kê khai tài sản” nói riêng sẽ đem lại cho giảng viên vốn
kiến thức thực tiễn, góp phần làm phong phú bài giảng trên lớp.
Hai
là, cần hiểu đúng các yếu tố thực tiễn về kê khai tài sản, thu nhập đưa vào
giảng dạy.
Ba
là, đưa thực tiễn vào giảng dạy nội dung “kê khai tài sản, thu nhập” phải có
hiệu quả.
Bốn
là, vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực nhằm phát huy tính chủ động, sáng
tạo của người học, như xây dựng câu hỏi thảo luận mang tính tình huống./.
[1] Báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của
Chính phủ Tổng kết 10 năm thực hiện luật PCTN.
[2] Báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của
Chính phủ Tổng kết 10 năm thực hiện luật PCTN.
[3]
Báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ Tổng kết 10 năm thực hiện
luật PCTN.
[4] Lời giới thiệu xem
http://www.https://truongcanbothanhtra.gov.vn/gioi-thieu/loi-gioi-thieu.html.
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn http://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)