Ngày 01/10/2021, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 06/2021/TT-TTCP quy định về tổ chức, hoạt động của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra (bao gồm 07 chương với 52 điều kèm theo phụ lục) thay thế Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16 tháng 10 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra. Trong nội dung của Thông tư có một số nội dung mới về: Thay đổi Trưởng đoàn thanh tra; Thu thập thông tin, tài liệu để chuẩn bị thanh tra; về hồ sơ cuộc thanh tra được quy định như sau:
Thứ nhất, về việc thay đổi Trưởng đoàn thanh tra:
Trưởng đoàn thanh tra là người chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Đoàn thanh tra, vì thế vai trò của Trưởng đoàn có tầm quan trọng, là một trong các yếu tố quyết định kết quả hoạt động của Đoàn thanh tra. Chính vì vậy, khi mà Trưởng đoàn thanh tra khi không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thanh tra hoặc có hành vi vi phạm pháp luật hoặc là người thân thích với đối tượng thanh tra hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể thực hiện nhiệm vụ thanh tra, người ra quyết định thanh tra có quyền thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra (theo Điều 48 và Điều 55 Luật Thanh tra).
Thông tư số 05/2014/TT-TTCP đã quy định các trường hợp thay đổi Trưởng đoàn thanh tra. Tuy nhiên, Thông tư này vẫn nêu một cách chung nhất như quy định của Luật Thanh tra mà chưa quy định cụ thể về trường hợp thay đổi Trưởng đoàn thanh tra. Chưa có hướng dẫn về thủ tục thay đổi Trưởng đoàn thanh tra. Trong quyết định thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, một trong những căn cứ để thay đổi Trưởng đoàn đó là: Xét đề nghị của người tham mưu đề xuất thay đổi Trưởng đoàn thanh tra (nếu có) hoặc của Trưởng đoàn thanh tra (trong trường hợp vì lý do điều động công tác hoặc lý do sức khỏe…). Tuy nhiên, lại chưa nêu rõ cụ thể người tham mưu đề xuất thay đổi Trường đoàn là ai. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng mỗi địa phương có cách hiểu và thực hiện khác nhau, không thống nhất về trình tự, thủ tục.
Để khắc phục bất cập nêu trên Thông tư số 06/2021/TT-TTCP đã quy định cụ thể hơn về các trường hợp thay đổi Trưởng đoàn thanh tra (quy định tại Điều 12 của Thông tư) và đã bổ sung thêm quy định trình tự, thủ tục thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, trong đó đã xác định rõ người tham mưu đề xuất thay đổi Trưởng đoàn trong từng trường hợp. Quy định mới này tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cũng như thống nhất về trình tự, thủ tục trong toàn ngành.
Thứ hai, về thu thập thông tin, tài liệu để chuẩn bị thanh tra:
Việc thu thập thông tin, tài liệu, nắm tình hình để chuẩn bị thanh tra có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng nó làm căn cứ, cơ sở cho người ra quyết định thanh tra xác định nội dung cuộc thanh tra, lựa chọn đúng trọng tâm, trọng điểm cuộc thanh tra. Nó còn là căn cứ để Trưởng đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra, đồng thời thông qua việc thu thập thông tin, tài liệu, nắm tình hình ban đầu còn khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra. Những cuộc thanh tra có nội dung là việc thực hiện một chủ trương, chính sách hay lĩnh vực công tác lớn, phải tiến hành trên diện rộng, có phạm vi và đối tượng rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực và nhiều địa phương thì hiệu quả của cuộc thanh tra phụ thuộc rất lớn vào các thông tin, tài liệu, nắm tình hình ban đầu.
Tuy nhiên Thông tư số 05/2014/TT-TTCP hướng dẫn thì trước khi ban hành quyết định thanh tra, trong trường hợp cần thiết, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (gọi chung là người giao nhiệm vụ nắm tình hình) chỉ đạo việc thu thập thông tin, tài liệu, nắm tình hình để phục vụ cho việc ban hành quyết định thanh tra. Tuy nhiên trong thông tư này lại không chỉ rõ trường hợp nào là cần thiết phải thu thập thông tin, tài liệu để phục vụ cho việc ban hành Quyết định thanh tra. Như vậy việc thu thập thông tin, tài liệu để phục vụ cho việc ban hành Quyết định thanh tra hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Chính điều đó mà có rất nhiều Đoàn thanh tra không thực hiện việc thu thập thông tin, tài liệu để phục vụ cho việc ban hành Quyết định thanh tra, nhất là các Đoàn thanh tra của Huyện và Sở. Việc này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hiệu quả của Đoàn thanh tra.
Thông tư số 06/2021/TT-TTCP đã khắc phục vấn đề này và đã khẳng định việc thu thập thông tin, tài liệu để chuẩn bị thanh tra là bắt buộc thay vì “chỉ thực hiện khi cần thiết”. Đồng thời đã quy định và hướng dẫn một cách cụ thể việc thu thập thông tin, tài liệu để chuẩn bị thanh tra và đã xây dựng được mẫu “Đề cương yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu” tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho Đoàn thanh tra thực hiện nhiệm vụ thu thập thông tin, tài liệu để phục vụ cho việc ban hành Quyết định thanh tra nói riêng và hoạt động thanh tra nói chung để từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả của cuộc thanh tra.
Thứ ba, về hồ sơ cuộc thanh tra:
Tài liệu được lập thành hồ sơ sẽ giúp cho việc tra tìm nhanh chóng, làm căn cứ chính xác để giải quyết công việc kịp thời, hiệu quả, nâng cao hiệu suất và chất lượng công tác. Tài liệu trong quá trình giải quyết và sau khi giải quyết xong được sắp xếp và phân loại khoa học theo từng vấn đề, sự việc sẽ giúp cho các cán bộ và thủ trưởng cơ quan tìm kiếm tài liệu được nhanh chóng, đầy đủ, nghiên cứu vấn đề được hoàn chỉnh, đề xuất ý kiến và giải quyết công việc có căn cứ xác đáng và kịp thời. Do đó góp phần nâng cao hiệu suất và chất lượng công tác. Có hồ sơ sẽ giúp cho việc quản lý tài liệu được chặt chẽ. Mỗi khi văn bản được lập thành hồ sơ thì sẽ tạo điều kiện cho cán bộ, thủ trưởng cơ quan quản lý được tài liệu, nắm chắc được thành phần, nội dung và khối lượng văn bản, biết được những tài liệu nào phải bảo quản cẩn thận, chu đáo, biết được những văn bản bị thất lạc, cho mượn tùy tiện để kịp thời có biện pháp quản lý chặt chẽ. Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lưu trữ, phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu trước mắt và lâu dài.
Tuy nhiên Thông tư số 05/2014/TT-TTCP chưa quy định về hồ sơ thanh tra mà trích dẫn theo quy định về hồ sơ thanh tra theo quy định của Luật Thanh tra.
Theo quy định của Luật Thanh tra thì hồ sơ thanh tra do Đoàn thanh tra tiến hành gồm có: Quyết định thanh tra; biên bản thanh tra; báo cáo, giải trình của đối tượng thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra; Kết luận thanh tra; Văn bản về việc xử lý, kiến nghị việc xử lý; Tài liệu khác có liên quan.
Theo quy định này thì hồ sơ thanh tra chỉ mới nêu được các văn bản chủ yếu còn các tài liệu khác thì mỗi địa phương, mỗi Đoàn thanh tra được hiểu và thực hiện một cách khác nhau. Chính vì vậy mà nhiều tài liệu đã không được đưa vào hồ sơ thanh tra. Việc xắp xếp hồ sơ cũng chưa thật sự khoa học điều này đã gây khó khăn cho việc tìm kiếm và khai thác hồ sơ (Đặc biệt là việc thanh tra lại).
Để khắc phục những bất cập này. Thông tư số 06/2021/TT-TTCP đã quy định một cách chi tiết về hồ sơ thanh tra gồm 4 nhóm:
Nhóm 1 về các văn bản chủ yếu, bao gồm: Quyết định thanh tra, quyết định gia hạn thời hạn thanh tra, quyết định bổ sung, thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra (nếu có); Kế hoạch tiến hành thanh tra; Văn bản, chỉ đạo của cấp có thẩm quyền là căn cứ ra Quyết định thanh tra; Kết luận thanh tra; Báo cáo kết quả thanh tra của Thủ trưởng cơ quan ra Quyết định thanh tra với cấp trên (nếu có); Các văn bản kết luận, chỉ đạo xử lý, quyết định xử lý của người ra quyết định thanh tra hoặc cấp có thẩm quyền; Nhật ký Đoàn thanh tra.
Nhóm 2 về các văn bản, tài liệu do Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra hoặc người được giao nhiệm vụ soạn thảo, ban hành trong quá trình thanh tra, bao gồm: Báo cáo khảo sát, nắm tình hình hoạt động của đối tượng thanh tra trước khi tiến hành thanh tra (nếu có); Văn bản, đề cương của Đoàn thanh tra yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo về những nội dung thanh tra; Các biên bản do Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra lập khi làm việc với đối tượng thanh tra và những người có liên quan đến nội dung thanh tra; Các báo cáo về tiến độ, tình hình thực hiện nhiệm vụ thanh tra với người ra quyết định thanh tra; Các văn bản, quyết định xử lý trong quá trình thanh tra; Các văn bản, báo cáo xác minh các nội dung thanh tra của Đoàn hoặc của các thành viên Đoàn thanh tra; Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của thành viên Đoàn thanh tra, Báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra; Biên bản các buổi họp, làm việc của Đoàn thanh tra về Báo cáo kết quả thanh tra; Biên bản các cuộc họp, làm việc của người ra quyết định thanh tra, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị chủ trì cuộc thanh tra với Đoàn thanh tra và thông báo ý kiến kết luận của người chủ trì họp, làm việc (nếu có); Văn bản, tài liệu do dối tượng thanh tra cung cấp, giải trình về các nội dung của Kết luận thanh tra (nếu có); Văn bản bảo lưu ý kiến của Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra.
Nhóm 3 về văn bản, tài liệu thu thập từ đối tượng thanh tra, là chứng cứ phục vụ Kết luận thanh tra, bao gồm: Văn bản, báo cáo của đối tượng thanh tra theo đề cương, yêu cầu của Đoàn thanh tra; Văn bản, báo cáo của đối tượng thanh tra cung cấp có liên quan đến nội dung thanh tra.
Nhóm 4 về văn bản, tài liệu khác liên quan đến cuộc thanh tra, bao gồm: Các loại đơn thư phản ánh, kiến nghị, tố cáo có liên quan đến các nội dung thanh tra; Báo cáo kết quả giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra (nếu có); Báo cáo kết quả thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra, Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định và các tài liệu, biên bản làm việc (nếu có); Các dự thảo Kết luận thanh tra xin ý kiến; các văn bản gửi lấy ý kiến về dự thảo Kết luận thanh tra; văn bản trưng cầu giám định (nếu có); Các văn bản của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến vào dự thảo Kết luận thanh tra; văn bản giám định (nếu có); Các tài liệu khác có liên quan đến cuộc thanh tra.
Quy định này là cơ sở pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho Đoàn thanh tra trong việc xắp xếp hồ sơ, khai thác và lưu trữ hồ sơ thanh tra.
Trên đây là một số điểm mới của Thông tư số 06/2021/TT-TTCP có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 11 năm 2021 thay thế cho Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16 tháng 10 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra; Thông tư số 05/2015/TT-TTCP ngày 10 tháng 9 năm 2015 của Thanh tra Chính phủ quy định về giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra; Thông tư số 08/2015/TT-TTCP ngày 15 tháng 12 năm 2015 của Thanh tra Chính phủ quy định về Sổ nhật ký Đoàn thanh tra; Quyết định số 2316/QĐ-TTCP ngày 10 tháng 10 năm 2013 của Thanh tra Chính phủ ban hành Quy trình thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra. Những điểm mới này sẽ góp phần quan trọng trong việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra.
Lê Văn Chưởng
Giảng viên Khoa Nghiệp vụ Thanh tra
Cơ quan chủ quản: Thanh tra Chính phủ
Giấy phép hoạt động: 46/GP-BC
cấp ngày: 06/5/2015
Nơi cấp: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bir hesabınız yoksa, gerekli bilgileri doldurarak Mostbet web sitesine kaydolabilirsiniz.
© 2021 Bản quyền của Trường Cán bộ Thanh tra. Design by tcsoft.vn
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản
(Ghi rõ nguồn https://truongcanbothanhtra.gov.vn nếu sử dụng thông tin từ Website này)