![]() |
| Quang cảnh Hội thảo. |
Dự Hội thảo có đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương; đồng chí Lê Thành Long, Phó Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ tịch Quốc hội; đồng chí Hoàng Thanh Tùng, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội. Về phía Bộ Tư pháp có Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh và các đồng chí Thứ trưởng: Nguyễn Thanh Tịnh, Phan Chí Hiếu, Đặng Hoàng Oanh, Nguyễn Thanh Tú. Tham dự Hội thảo còn có các đồng chí đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo và đại diện một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà quản lý và hoạt động thực tiễn.
![]() |
| Đồng chí Lê Thành Long, Phó Thủ tướng Chính phủ phát biểu khai mạc Hội thảo. |
Việt Nam đã thiết lập được khung cấu trúc pháp luật cơ bản, tương đối đầy đủ
Phát biểu khai mạc Hội thảo, đồng chí Lê Thành Long, Phó Thủ tướng Chính phủ cho biết, đây là sự kiện quan trọng, góp phần làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận, nhận diện vấn đề thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để thực hiện mục tiêu đưa thể chế và pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, đóng vai trò dẫn dắt phát triển đất nước.
Theo Phó Thủ tướng, hệ thống thể chế, pháp luật là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, xác định đây là một trong ba đột phá chiến lược; đã ban hành, triển khai thực hiện hiệu quả nhiều chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, thi hành pháp luật và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Phó Thủ tướng Lê Thành Long nhấn mạnh, Việt Nam đã thiết lập được khung cấu trúc pháp luật cơ bản, khá đầy đủ; hệ thống pháp luật cơ bản đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội với khoảng gần 300 luật, bộ luật, pháp lệnh cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật dưới luật khác đang còn hiệu lực.
Công tác xây dựng và thực thi pháp luật được đổi mới về cả tư duy, cách làm; chuyển từ tư duy có phần thiên về tập trung quản lý sang chủ động dẫn dắt, từ xử lý từng vụ việc sang kiến tạo hành lang pháp lý dài hạn. Nhiều cơ chế, chính sách đã được ban hành, kịp thời tháo gỡ nhiều “điểm nghẽn” trong hệ thống pháp luật, xử lý nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển.
![]() |
| Đồng chí Phan Chí Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tư pháp phát biểu tham luận tại Hội thảo. |
Tại Hội thảo, đồng chí Phan Chí Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tư pháp giới thiệu khái quát những nội dung dự kiến đưa vào dự thảo Đề án Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (dự thảo Đề án).
Thứ trưởng cho biết, về cấu trúc, Đề án được cơ cấu thành 03 phần lớn: Phần thứ nhất “Những vấn đề chung về cấu trúc hệ thống pháp luật”; Phần thứ hai “Đánh giá thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam”; Phần thứ ba “Bối cảnh, quan điểm, mục tiêu, giải pháp hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”.
Năm định hướng lớn trong hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật
Thứ trưởng Phan Chí Hiếu thông tin, về định hướng hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật giai đoạn năm 2026 – 2031 và các giai đoạn tiếp theo, dự thảo Đề án tập trung nêu bật năm định hướng lớn và các định hướng theo 08 lĩnh vực. Năm định hướng lớn gồm:
Thứ nhất, xác định rõ cấu trúc hệ thống pháp luật, sự tác động của nó tới công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, từ đó xác định rõ định hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Dành nhiều ưu tiên cho việc xây dựng các luật, tạo nền tảng pháp lý cho quản trị phát triển; thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; khơi thông các nguồn lực phục vụ phát triển; thúc đẩy phát triển các mô hình phát triển mới, các quá trình chuyển đổi.
Thứ hai, vận dụng hợp lý tư duy phân loại quy định chung, quy định cụ thể; thứ bậc của các văn bản quy phạm; tính chất công – tư của quy phạm để xác định các yêu cầu phù hợp khi thiết kế các quy phạm pháp luật thuộc từng lĩnh vực pháp luật cụ thể; bảo đảm thuận lợi, minh bạch, độ tin cậy trong áp dụng pháp luật, có căn cứ thống nhất để xử lý các mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định.
Thứ ba, tính toán hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật theo hướng lấy Hiến pháp và một số văn bản luật có tính chất nền tảng (Bộ luật Dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng hành chính…) làm trung tâm, các văn bản luật khác phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và gắn kết rất cao với các văn bản luật có tính chất nền tảng này, xác định rõ hơn các văn bản luật chung và văn bản luật chuyên ngành/đặc thù.
Thứ tư, giảm tối đa tầng nấc, phân định rõ hơn phạm vi những vấn đề phải được quy định trong luật, những vấn đề được quy định trong nghị định, thông tư…, tính toán tiếp tục thu hẹp loại văn bản quy phạm mà mỗi cơ quan được ban hành.
Thứ năm, mở rộng hợp lý trường hợp luật chuyên ngành được quy định các biện pháp chế tài đặc thù bổ sung cho các biện pháp chế tài được quy định trong Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, nhằm bảo đảm tính kịp thời và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật.
Thứ trưởng cũng cho biết, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các ban, Bộ, ngành, các cơ quan của Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học hoàn thiện nội dung dự thảo Đề án để trình xin ý kiến các cơ quan có thẩm quyền. Từ đó, chỉnh lý, bổ sung, hoàn thiện Báo cáo Đề án, trình Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật vào tháng 12/2025.
![]() |
![]() |
| Các đại biểu tham dự phát biểu tại Hội thảo. |
Bốn nội dung trọng tâm trong hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật
Tại Hội thảo, nhiều nghiên cứu chuyên sâu được công bố, nhiều ý kiến thảo luận, chia sẻ về việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó nổi bật một số nội dung như: Cơ sở lý luận hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Tiêu chí đánh giá tính hợp lý của cấu trúc hệ thống pháp luật; Cấu trúc hệ thống pháp luật của Hàn Quốc và giá trị tham khảo cho Việt Nam; Thực trạng và đề xuất hoàn thiện cấu trúc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, tài chính, công thương, nông nghiệp và môi trường.
![]() |
| Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo. |
Phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo, đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương đánh giá rất cao các báo cáo trong kỷ yếu Hội thảo cũng như các ý kiến phát biểu tại phiên Hội thảo. Đồng chí cũng cho biết, cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cơ bản có bốn đặc điểm nổi bật: (i) Cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam về cơ bản được xây dựng dựa trên luật thành văn, trong đó các bộ luật, luật là nguồn chính và quan trọng nhất; (ii) Hệ thống pháp luật phát triển nhanh về số lượng văn bản nhưng chất lượng chưa tương xứng; (iii) Cấu trúc hệ thống pháp luật còn phức tạp, nhiều tầng nấc, phạm vi điều chỉnh mở rộng, hệ thống văn bản nhiều, gây khó khăn cho việc tra cứu, áp dụng và là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn; (iv) Hệ thống pháp luật Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ. Việc từng bước nâng cao vai trò của án lệ và các cơ chế pháp lý khác cho thấy xu hướng kết hợp các yếu tố hợp lý của nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, đây là điểm rất tiến bộ.
Mặc dù đến nay, hệ thống pháp luật nước ta tương đối đồng bộ, minh bạch, dễ tiếp cận, bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng vấn đề về tính hợp lý của cấu trúc trong hệ thống pháp luật vẫn là thách thức lớn. Cụ thể, còn biểu hiện phân tán, chồng chéo, văn bản thiếu thống nhất, thiếu tính dự báo; một số lĩnh vực mới như tài sản số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu cá nhân… chưa được điều chỉnh đầy đủ; cơ chế lập pháp còn mang nặng tính ứng phó, chưa chuyển mạnh sang tính chủ động, kiến tạo;… Do đó, hoàn thiện cấu trúc tổng thể của hệ thống pháp luật là yêu cầu khách quan, cấp thiết, xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế tri thức, chuyển đổi số – đòi hỏi khuôn khổ pháp lý phải mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng nhanh, có khả năng hỗ trợ, kiến tạo cho người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Đồng chí Trưởng Ban Nội chính Trung ương đề nghị cần xác định bốn nội dung trọng tâm trong hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật như sau: (i) Chuyển từ tư duy pháp luật quản lý sang pháp luật kiến tạo, đặt trọng tâm vào kiểm soát rủi ro, đồng thời tạo cơ hội khuyến khích đổi mới sáng tạo nhưng vẫn bảo đảm trật tự, kỷ cương; (ii) Rà soát, cắt giảm tầng nấc trung gian, xóa bỏ tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định; hướng tới hệ thống pháp luật tinh gọn, thống nhất, minh bạch, trong đó mỗi lĩnh vực có “luật gốc” đủ mạnh, bảo đảm tính ổn định. Thiết lập cơ chế thử nghiệm pháp lý, kiểm soát rủi ro trong các lĩnh vực mới; (iii) Đổi mới toàn diện quy trình xây dựng pháp luật theo hướng khoa học, minh bạch, ngăn chặn tình trạng lợi ích nhóm, cục bộ trong xây dựng chính sách; (iv) Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật, đặt mục tiêu hoàn thiện pháp luật từ khâu lập pháp, hành pháp đến tư pháp, có cơ chế phản hồi, bổ sung thường xuyên.
Bên cạnh đó, trong việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn mới, đồng chí Phan Đình trạc yêu cầu Hội thảo cũng thống nhất một số quan điểm cơ bản cần quán triệt: (i) Bám sát, cụ thể hóa, kịp thời và đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm sự đồng bộ với tư duy, định hướng của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; (ii) Bám sát thực tiễn; lấy quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; (iii) Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững chủ quyền quốc gia; biến thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia trong hội nhập quốc tế, bảo đảm sự tương thích của hệ thống pháp luật Việt Nam với chuẩn mực pháp lý quốc tế; (iv) Gắn việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật trong tổng thể quá trình hoàn thiện thể chế phát triển đất nước, phù hợp với mô hình quản lý quốc gia hiện đại, với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng và hệ thống chính trị nói chung; (v) Vận dụng nguyên tắc pháp quyền trong thiết kế, cấu trúc và phát triển hệ thống pháp luật; (vi) Chủ động, tích cực tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt của các quốc gia có hệ thống pháp luật hiện đại.
Đồng thời, ghi nhận các ý kiến về một số quan điểm cần phải được quán triệt và thực hiện nghiêm trong việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam, Trưởng Ban Nội chính Trung ương cũng nêu một số định hướng hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
![]() |
| Đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp phát biểu đáp từ tại Hội thảo. |
Phát biểu đáp từ tại Hội thảo, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bày tỏ, Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức Hội thảo rất vinh dự được đón đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương đến dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo khoa học cấp quốc gia về hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Phát biểu chỉ đạo của đồng chí Trưởng Ban Nội chính Trung ương đã nêu ra những nội dung lớn và các vấn đề trọng tâm, là những định hướng rất quan trọng để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, bổ sung vào Đề án Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, trình Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật trong tháng 12 năm nay.
Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức Hội thảo sẽ tiếp thu đầy đủ ý kiến chỉ đạo của đồng chí Trưởng Ban nội chính Trung ương và sẽ quyết tâm, nỗ lực triển khai hiệu quả chỉ đạo của đồng chí, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam thực sự có chất lượng, hiện đại, đồng bộ, tiệm cận chuẩn mực và thông lệ quốc tế tiên tiến, phù hợp với thực tiễn đất nước; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng tới hai mục tiêu chiến lược của đất nước ta trong kỷ nguyên mới.
![]() |
| Đồng chí Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ tịch Quốc hội phát biểu bế mạc Hội thảo. |
Kết quả Hội thảo là nguồn tư liệu quý để xây dựng, hoàn thiện hai đề án lớnPhát biểu bế mạc Hội thảo, đồng chí Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, Hội thảo được tổ chức nhằm giúp Bộ Tư pháp, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội và các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hai đề án rất lớn: Một là “Đề án hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”, được Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật giao cho Đảng ủy Bộ Tư pháp chuẩn bị; hai là “Đề án định hướng lập pháp của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI (2026 – 2031)”, được Bộ Chính trị giao cho Đảng uỷ Quốc hội chuẩn bị, trong đó Đảng ủy Ủy ban Pháp luật và Tư pháp là cơ quan tham mưu, giúp việc.
Hai đề án đều rất lớn, rất quan trọng và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể nói, kết quả của Đề án hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật chính là “bản thiết kế”, là cơ sở lý luận dẫn dắt, mở đường cho thực tiễn, làm quy hoạch tổng thể cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, vừa quản lý, vừa dẫn dắt, thúc đẩy kiến tạo cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể đó, từ yêu cầu phát triển đất nước, Đề án định hướng lập pháp cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI sẽ xác định danh mục các luật mà Quốc hội phải xem xét, thông qua, sửa đổi, bổ sung trong cả nhiệm kỳ.
Đồng chí Nguyễn Khắc Định nhấn mạnh, Hội thảo đã được nghe các tham luận và nhiều ý kiến phát biểu của các đại biểu rất tâm huyết, trí tuệ, trách nhiệm cao từ các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, đại diện các cơ quan, đặc biệt là phát biểu chỉ đạo rất quan trọng của đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương. Những ý kiến chỉ đạo của đồng chí đã mở ra những định hướng lớn để xây dựng cả hai đề án nói trên; gợi mở mục tiêu, định hướng, giải pháp tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, phù hợp với tinh thần dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Đây là những chỉ đạo sâu sắc, mang tầm nhìn chiến lược dài hạn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư và Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật./.
![]() |
| Toàn cảnh Hội thảo. |
Tham dự Hội thảo có đồng chí Ngô Trung Thành, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội; đồng chí Nguyễn Văn Cương, Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý; đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp cùng các chuyên gia, nhà khoa học.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú cho biết, ngay sau cuộc họp với Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật, Tổng Bí thư Tô Lâm đã giao Đảng ủy Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng Đề án đánh giá và hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam với mục đích cuối cùng là bảo đảm thể chế và pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, đóng vai trò dẫn dắt sự phát triển của đất nước, đặc biệt đối với kinh tế – xã hội. Vì vậy, nhằm giúp Bộ Tư pháp có cơ sở để hoàn thiện Đề án, Thứ trưởng đề nghị các chuyên gia, nhà khoa học tham dự Hội thảo tập trung trao đổi, thảo luận 03 nhóm vấn đề trọng tâm, cụ thể: (i) Làm rõ khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật; các khái niệm liên quan đến cấu trúc hệ thống pháp luật; các thành tố trong cấu trúc hệ thống pháp luật và mối liên hệ của các thành tố này, từ đó xác định cấu trúc của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay; (ii) Xác định quan điểm, nguyên tắc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật; (iii) Đề xuất các mô hình cấu trúc và định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
![]() |
| Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú phát biểu khai mạc Hội thảo. |
Thay mặt nhóm chuyên gia tư vấn của Đề án “Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”, GS. TS. Vũ Công Giao, Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất, sơ đồ hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam nên được thể hiện theo mô hình kim tự tháp với 04 tầng: Tầng 1 là Hiến pháp; Tầng 2 là luật; Tầng 3 là văn bản dưới luật và Tầng 4 là luật mềm gồm án lệ, tập quán, quy tắc nghề nghiệp… Trong đó, Tầng 1 quy định nguyên tắc; Tầng 2 thể chế hóa; Tầng 3 cụ thể hóa và hướng dẫn; Tầng 4 hỗ trợ vận hành linh hoạt. Các tầng có quan hệ liên thông dọc (hiến định – lập pháp – dưới luật – mềm) và liên thông ngang (giữa các lĩnh vực pháp luật). Bên cạnh đó, việc thiết kế và vận hành hệ thống pháp luật phải bảo đảm một số nguyên tắc như: Nguyên tắc phân tầng (trật tự thứ bậc, quyền lực lập pháp – hành pháp – tư pháp); nguyên tắc phân ngành (cấu trúc luật theo lĩnh vực điều chỉnh, tạo tính hệ thống và chuyên sâu); nguyên tắc phân quyền lập pháp, lập quy (sự rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa trung ương và địa phương trong xây dựng và thi hành pháp luật, tránh tình trạng “nghị định sửa luật”, văn bản do địa phương ban hành trái với văn bản do trung ương ban hành)…
![]() |
| GS.TS. Lê Minh Tâm, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội trao đổi tại Hội thảo. |
Theo GS.TS. Lê Minh Tâm, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội, cấu trúc tổng thể của hệ thống pháp luật Việt Nam gồm 04 yếu tố: (i) Chính sách đóng vai trò định hướng, dẫn dắt, thể hiện quan điểm, mục tiêu, giải pháp kinh tế, chính trị, xã hội có tính ổn định lâu dài mà hệ thống pháp luật hướng tới phản ánh và điều chỉnh; (ii) Thể chế có chức năng thực hiện các hoạt động tạo lập, thực thi và áp dụng pháp luật bằng các quy trình, thủ tục chặt chẽ, chính danh, hợp pháp, hiệu quả; (iii) Nguyên tắc là những nguyên lý có tính cơ bản, sâu sắc được xã hội thừa nhận về pháp lý và đạo đức, có chức năng là cơ sở cho việc giải thích, áp dụng và phát huy hiệu lực của các quy phạm pháp luật; (iv) Các quy phạm pháp luật là những quy tắc, chuẩn mực được quy định cụ thể để xác định quyền, nghĩa vụ và chế tài trong các tình huống điển hình cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Đặc biệt, GS.TS. Lê Minh Tâm nhấn mạnh, để việc xây dựng hệ thống pháp luật được khoa học, hợp lý, vừa thống nhất, ổn định, vừa có tính mở, tính năng động trong việc phát huy vai trò thích ứng, hiệu lực của mỗi bộ phận hợp thành và của toàn bộ hệ thống pháp luật, cấu trúc nội dung của hệ thống pháp luật phải có lĩnh vực pháp luật, ngành luật, chế định pháp luật và quy phạm pháp luật.
![]() |
| GS.TS. Phan Trung Lý, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội trao đổi tại Hội thảo. |
Trao đổi tại Hội thảo, GS.TS. Phan Trung Lý, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội cho rằng, hệ thống pháp luật cần được chia thành 03 tầng: Bản chất, nội dung và hình thức. Bên cạnh đó, GS.TS. Phan Trung Lý nhấn mạnh, hiện nay Việt Nam chưa có mô hình tổng thể về cấu trúc hệ thống pháp luật, mà mới chỉ dừng lại ở việc xử lý các vấn đề cụ thể trong từng văn bản. Vì vậy, cần sớm xác lập một khung mô hình chung để định hướng tái cấu trúc toàn hệ thống. Ngoài ra, trong quá trình tái cấu trúc hệ thống pháp luật, cần đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao vị thế và hiệu lực của điều ước quốc tế, bảo đảm tính tương thích với pháp luật trong nước.
Phát biểu kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú đánh giá cao ý kiến đóng góp của các đại biểu tham dự Hội thảo, đồng thời bày tỏ mong muốn, trong thời gian tới sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ các chuyên gia, nhà khoa học trong việc cung cấp thêm thông tin nhằm giúp Bộ Tư pháp hoàn thành Đề án “Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” đạt hiệu quả cao nhất.
Từ khóa: phòng, chống tham nhũng; xây dựng pháp luật; kiểm soát quyền lực.
Đặt vấn đề
Điều 2 Hiến pháp năm 2013, sửa đổi, bổ sung năm 2025 (Hiến pháp năm 2013) quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời luôn quan tâm, coi trọng chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật[1]. Đặc biệt, công tác xây dựng và thi hành pháp luật là đột phá của đột phá trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước và là nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng[2].
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác phòng, chống tham nhũng, đặc biệt, trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, ngày 27/6/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 178-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật (Quy định số 178-QĐ/TW). Điều này thể hiện rõ quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường kiểm soát và phòng ngừa các nguy cơ tham nhũng trong tất cả các giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật. Trong kỷ nguyên mới, với những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng pháp luật, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định hiện hành về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật và đề xuất các giải pháp là thực sự cần thiết nhằm thể chế hóa sâu, rộng, hiệu quả các chủ trương của Đảng trong thực tiễn.
1. Khái quát chung về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật
1.1. Khái niệm phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật
Khoản 1 Điều 2 Quy định số 178-QĐ/TW quy định: “Công tác xây dựng pháp luật là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong việc đề nghị, kiến nghị xây dựng pháp luật, lập, thông qua, điều chỉnh chương trình xây dựng pháp luật, soạn thảo, lấy ý kiến, trình, tham gia góp ý, phản biện xã hội, thẩm định, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”. Công tác xây dựng pháp luật hướng tới việc hình thành các quy định pháp luật phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, phù hợp với thực tiễn kinh tế – xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, trong công tác xây dựng pháp luật, một số trường hợp các chủ thể đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để hình thành lợi ích nhóm và vụ lợi cá nhân. Theo khoản 4 Điều 2 Quy định số 178-QĐ/TW, “Tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật là hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn của người có thẩm quyền trong quá trình xây dựng pháp luật vì mục đích vụ lợi”. Đó là hoạt động phức hợp gồm các hành vi kế tiếp nhau, quan hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều cá nhân và nhóm chủ thể có vị trí, chức năng, quyền hạn khác nhau tiến hành nhằm chuyển hóa quyền lợi thành những quy tắc pháp lý, thể hiện chúng dưới những hình thức chính sách, pháp luật (chủ yếu là các văn bản pháp luật)[3]. Điều 5 Quy định số 178-QĐ/TW quy định 06 nhóm hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, gồm:
(i) Hành vi cố ý chủ trì ban hành hoặc tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thể hiện lợi ích nhóm, cục bộ; cố ý trì hoãn việc đình chỉ, bãi bỏ, thay thế, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật vì mục đích lợi ích nhóm, cục bộ. Đây có thể coi là một trong những hành vi nguy hiểm nhất trong các hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật. Việc cố tình đưa những điều khoản “ưu ái” cho một nhóm lợi ích nhất định hoặc trì hoãn việc sửa đổi văn bản pháp luật, thể hiện sự tha hóa quyền lực, coi thường lợi ích công, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
(ii) Hành vi nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc các lợi ích khác dưới mọi hình thức để ban hành hoặc tác động đến cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật nhằm ban hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thể hiện lợi ích nhóm, cục bộ. Đây là hành vi tham nhũng dễ nhận thấy, làm mất tính khách quan, công bằng của pháp luật, dẫn đến các chính sách quan trọng được đưa ra dựa trên lợi ích cá nhân hoặc lợi ích một nhóm người, mà không dựa trên nhu cầu và lợi ích chung của xã hội.
(iii) Hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ cho người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật nhằm ban hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thể hiện lợi ích nhóm, cục bộ.
Hành vi này tạo ra hệ thống pháp luật bị chi phối bởi quyền lực kinh tế, làm suy yếu vai trò điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội, làm “méo mó” môi trường kinh doanh, gây khó khăn cho các chủ thể khác và làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước.
(iv) Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong công tác xây dựng pháp luật để định hướng truyền thông không bảo đảm khách quan và không đúng sự thật về nội dung chính sách trong công tác xây dựng pháp luật vì vụ lợi. Hành vi này tương đối khó phát hiện trong bối cảnh truyền thông đa dạng như hiện nay. Việc kiểm soát thông tin và định hướng dư luận nhằm che đậy những động cơ vụ lợi đằng sau các chính sách, tạo sự đồng thuận giả tạo và gây khó khăn cho việc phát hiện và đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
(v) Hành vi lạm quyền, câu kết với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác để trục lợi trong công tác xây dựng pháp luật. Hành vi này thể hiện sự “móc ngoặc” giữa những người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật với các đối tượng bên ngoài nhằm thu lợi bất chính thông qua việc tạo ra các quy định pháp luật có lợi cho nhóm lợi ích.
(vi) Các hành vi tham nhũng, lợi ích nhóm, cục bộ khác trong công tác xây dựng pháp luật theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đây là một điều khoản mở, cho thấy Đảng và Nhà nước đã tiên liệu tính đa dạng, không ngừng biến đổi của các hành vi tham nhũng. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần theo dõi sát sao, cập nhật liên tục các quy định pháp luật và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng mới phát sinh.
Các hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật diễn ra tinh vi, để lại những hậu quả nghiêm trọng do khả năng tác động của chính sách, pháp luật ở phạm vi và mức độ rộng lớn hơn các hành vi tham nhũng đơn lẻ. Bởi vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải có các biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và chống lại các hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật. Từ các phân tích trên, có thể hiểu, phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật là tổng thể các biện pháp, hoạt động nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý hành vi của người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong công tác xây dựng pháp luật vì vụ lợi.
1.2. Ý nghĩa của phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật
Thứ nhất, phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật góp phần bảo vệ chế độ, xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm tính thượng tôn pháp luật. Đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh gian khó, phức tạp nhưng cần thiết và phải được thực hiện để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, dựa trên lợi ích chung của toàn xã hội.
Thứ hai, phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước, nâng cao đời sống Nhân dân. Hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng là yếu tố then chốt để thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Trong đó, quy trình xây dựng pháp luật minh bạch sẽ tạo ra những văn bản pháp luật chất lượng cao, khả thi, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước.
Thứ ba, phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật giúp củng cố niềm tin của Nhân dân vào chế độ chính trị, duy trì các giá trị đạo đức truyền thống, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Thông qua con đường đấu tranh không khoan nhượng với các hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước.
1.3. Nguyên tắc phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật
Theo Điều 4 Quy định số 178-QĐ/TW, hoạt động phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, chặt chẽ, toàn diện của Đảng trong kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ hai, kết hợp đồng bộ, chặt chẽ các cơ chế, biện pháp kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật; chủ động phòng ngừa là chính; kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; bảo vệ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Thứ ba, đề cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ tư, bảo đảm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật; không làm cản trở sự chủ động, sáng tạo, công khai, minh bạch, dân chủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ năm, bảo đảm sự giám sát, phản biện, tham gia xây dựng pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, cơ quan báo chí, tổ chức xã hội khác và Nhân dân theo quy định.
2. Thực trạng phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật tại Việt Nam
2.1. Một số kết quả đạt được
Thứ nhất, về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật: trong thời gian qua, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật[4], cũng như ban hành các chủ trương, đường lối, định hướng lớn về xây dựng pháp luật, bảo đảm pháp luật phù hợp với Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và tình hình thực tiễn của đất nước. Qua đó, nhận thức về tầm quan trọng của việc phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật đã được nâng lên. Hệ thống quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật ngày càng được hoàn thiện, trong đó, Quy định số 178-QĐ/TW là bước tiến quan trọng, đặt cơ sở vững chắc, làm tiền đề cho việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng vào các quy định pháp luật cụ thể.
Bên cạnh đó, Đảng tiến hành kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng pháp luật về việc chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các quy định về phòng, chống tham nhũng. Đảng đã ban hành các quy định nghiêm khắc về kỷ luật đối với đảng viên vi phạm, gồm cả các hành vi tham nhũng trong quá trình tham gia xây dựng pháp luật.
Thứ hai, về hoạt động kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua việc thực hiện các quy trình, thủ tục trong công tác xây dựng pháp luật: hệ thống pháp luật Việt Nam quy định một quy trình chặt chẽ bảo đảm sự phối hợp, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền từ khâu lập đề nghị xây dựng pháp luật, thông qua chính sách, đưa vào chương trình xây dựng pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra đến ban hành, công khai văn bản quy phạm pháp luật. Công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương ngày càng được quan tâm, coi trọng. Trên cơ sở Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, ngày 17/5/2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 197/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật (Nghị quyết số 197/2025/QH15).
Thứ ba, về hoạt động giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật: hệ thống pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể về hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh[5]; hoạt động thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật để kịp thời phát hiện và xử lý các văn bản trái pháp luật, không phù hợp với thực tiễn hoặc có tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng.
Thứ tư, về hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức xã hội khác, cơ quan báo chí và Nhân dân: Hiến pháp năm 2013 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã quy định vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng như trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc lấy ý kiến góp ý, tham vấn, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức xã hội khác, cơ quan báo chí và Nhân dân với hình thức lấy ý kiến đa dạng.
Thứ năm, về hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong công tác xây dựng pháp luật: pháp luật Việt Nam quy định hình thức xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong công tác xây dựng pháp luật tùy từng mức độ và tính chất của hành vi vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Việc xử lý hành vi vi phạm được thực hiện nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ nhằm răn đe và phòng ngừa các hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Một số vụ việc vi phạm trong công tác xây dựng pháp luật đã bị phát hiện và xử lý, thể hiện tính nghiêm minh của công cuộc phòng, chống tham nhũng.
2.2. Một số hạn chế, vướng mắc
Thứ nhất, ngoài Quy định số 178-QĐ/TW, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa “tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật”, chưa có tiêu chí cụ thể, rõ ràng xác định hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ hai, một số cơ quan chủ trì soạn thảo đề xuất đưa vào chương trình các dự án luật, pháp lệnh chưa đủ căn cứ, chưa thực sự cần thiết, hồ sơ đề nghị được chuẩn bị sơ sài, không đầy đủ hồ sơ theo quy định. Bên cạnh đó, còn có sự lạm dụng việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Một số văn bản khi đề xuất xây dựng theo trình tự, thủ tục rút gọn có phạm vi nội dung ít hoặc đơn giản, tuy nhiên, trong quá trình xây dựng cơ quan chủ trì soạn thảo lại đề xuất mở rộng phạm vi điều chỉnh nên các nội dung mới không được nghiên cứu tổng kết hoặc đánh giá kỹ lưỡng làm ảnh hưởng đến chất lượng dự thảo văn bản.
Thứ ba, một số báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành các quy định pháp luật không khảo sát, đánh giá kỹ thực trạng tại các vùng, miền, địa phương; báo cáo đánh giá tác động chính sách chưa xác định rõ vấn đề cần giải quyết, mục tiêu của chính sách, giải pháp để thực hiện chính sách, nội dung đánh giá tác động còn thiếu thông tin, số liệu đáng tin cậy, chủ yếu sử dụng phương pháp định tính; báo cáo rà soát quy định pháp luật có liên quan, báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới còn hình thức, thiếu thông tin.
Thứ tư, một số trường hợp tổ chức lấy ý kiến dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn hình thức, thủ tục, chưa có trọng tâm; không bảo đảm đúng thời hạn luật định; không lấy ý kiến đầy đủ của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Việc tập hợp, xử lý các ý kiến góp ý chưa được quy chuẩn hóa, nhiều ý kiến tổng hợp trùng lặp hoặc bỏ sót. Việc phản hồi ý kiến góp ý chưa được chú trọng, chất lượng ý kiến đóng góp nhìn chung chưa cao, nhất là đối với những vấn đề mới, phức tạp, còn nhiều tranh luận.
Thứ năm, một số dự thảo văn bản quy phạm pháp luật không quy định rõ thủ tục hành chính hoặc quy định thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, không cần thiết; quy định điều kiện kinh doanh không dựa trên yêu cầu quản lý nhà nước, nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh. Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản có tính chất tùy nghi khi giao nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cho cơ quan, tổ chức; quy định các trường hợp ngoại lệ và miễn trừ quá nhiều hoặc không hợp lý. Quy trình xây dựng thông tư, thông tư liên tịch hiện còn có tình trạng “đóng kín”, thiếu cơ chế phản biện từ bên ngoài hiệu quả. Do đó, thông tư được ban hành tiềm ẩn rủi ro là sẽ chỉ tập trung phản ánh ý chí chủ quan của bộ, ngành mà không quan tâm đúng mức đến nhu cầu của các chủ thể khác, nhất là các đối tượng xã hội chịu sự tác động của thông tư[6].
Thứ sáu, trình độ, kỹ năng của một bộ phận công chức, người được giao trách nhiệm hoạch định chính sách, pháp luật, thể chế chưa ngang tầm với yêu cầu của công việc đặc biệt khó khăn và phức tạp này. Việc đầu tư vào xây dựng pháp luật, thể chế chưa được coi là đầu tư phát triển để có chủ trương đầu tư thỏa đáng, nhất là đầu tư cho giai đoạn xây dựng chính sách, soạn thảo văn bản[7]. Chính sách tiền lương và thu nhập chưa hấp dẫn để huy động các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành đóng góp vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật còn một số tồn tại, hạn chế.
3. Một số kiến nghị, giải pháp
3.1. Hoàn thiện quy định về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Thứ nhất, quy phạm hóa các nội dung liên quan đến phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, đặc biệt, quy phạm hóa các nội dung tại Quy định số 178-QĐ/TW theo hướng làm rõ khái niệm, tiêu chí, cách xác định các “hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật” ngay trong các văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ pháp lý cụ thể, thống nhất cho việc hiện thực hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, đẩy mạnh phản biện xã hội, nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ và tăng cường sự tham gia của các chủ thể liên quan. Để bảo đảm việc lấy ý kiến thực chất, không mang tính hình thức, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 cần quy định chi tiết, rõ ràng hơn về cơ chế phản hồi, quyền hạn của người góp ý và biện pháp xử lý trong trường hợp cơ quan chủ trì soạn thảo không tiếp thu, không giải trình thỏa đáng các ý kiến góp ý.
Thứ ba, nâng cao quy định chế tài về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác xây dựng pháp luật, cần cá thể hóa trách nhiệm, tránh quy định trách nhiệm chung chung, trách nhiệm tập thể. Mặt khác, phải có cơ chế và quy định bảo vệ, khuyến khích những người dám nghĩ, dám làm, bứt phá, đổi mới, sáng tạo vì sự nghiệp chung, không ngại va chạm, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực[8].
Thứ tư, khắc phục sơ hở, bất cập trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, đặc biệt là những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng như quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; thu, chi ngân sách; đầu tư xây dựng; tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan; các chế độ, định mức, tiêu chuẩn[9]… Trên cơ sở Nghị quyết số 197/2025/QH15, các bộ, ngành, địa phương cần khẩn trương rà soát tổng thể các quy định pháp luật, phát hiện các quy định tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tiêu cực, tham nhũng để có cơ chế xử lý, khắc phục kịp thời.
Thứ năm, minh bạch, cắt giảm các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, rà soát danh mục, giảm bớt các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 cần quy định riêng quy trình ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có chứa quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính so với các văn bản pháp luật khác; cần bổ sung đánh giá tác động chính sách về nguy cơ tham nhũng; đối thoại, lấy ý kiến rộng rãi người dân, doanh nghiệp trực tiếp liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật này.
Thứ sáu, cụ thể hóa các chính sách về bảo đảm nguồn nhân lực, nguồn kinh phí và cơ sở vật chất cho công tác xây dựng pháp luật, cơ chế tài chính đặc thù, tương xứng cho công tác xây dựng pháp luật; thu hút, sử dụng hiệu quả và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xây dựng pháp luật; tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
3.2. Nâng cao hiệu quả thi hành các quy định về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Thứ nhất, thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân về tầm quan trọng của việc phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật.
Thứ hai, xây dựng tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng trình độ, trau dồi phẩm chất, ý thức đạo đức công vụ và tinh thần trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng pháp luật chuyên nghiệp, hiệu quả, có năng lực. Thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội, các hiệp hội và các chuyên gia, nhà khoa học để nâng cao chất lượng soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, phát hiện và hạn chế tối đa việc lồng ghép, cài cắm “lợi ích nhóm”, tham nhũng trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, thực hiện công khai, minh bạch toàn bộ quy trình xây dựng pháp luật, đặc biệt, thực hiện nghiêm việc đăng tải dự thảo để lấy ý kiến; bảo đảm các điều kiện để Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, doanh nghiệp, hiệp hội, cơ quan báo chí tham gia vào quy trình xây dựng chính sách, pháp luật, cũng như trách nhiệm giải trình đầy đủ ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thứ tư, tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật để nâng cao hiệu quả, giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tham gia hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật, xử lý nghiêm trách nhiệm của các chủ thể khi để xảy ra tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật; phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong việc phát hiện, kiến nghị xử lý tham nhũng.
Kết luận
Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cần phải có các chủ trương, quyết sách mạnh mẽ mang tính chiến lược và cách mạng về xây dựng, hoàn thiện thể chế, nhất là xây dựng và thi hành pháp luật để tạo xung lực mới đưa đất nước phát triển bứt phá trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc[10]. Trong bối cảnh đó, yêu cầu về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật được đặt ra và trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây là nhiệm vụ khó khăn nhưng vô cùng quan trọng. Phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật thành công góp phần xây dựng hệ thống pháp luật trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững và củng cố niềm tin của Nhân dân vào Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
ThS. Lê Thị Thu Hằng
Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông
NCS. Trần Thị Phương Liên
Học viện Tài chính
[1]. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[2]. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66-NQ/TW).
[3]. PGS. TS. Nguyễn Quốc Sửu (2022), Phòng, chống tham nhũng và kiểm soát vận động chính sách trong quy trình xây dựng pháp luật, https://www.tapchicongsan.org.vn/, truy cập ngày 15/5/2025.
[4]. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đề ra nhiệm vụ: “Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin – cho”, “duyệt – cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”; Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV nêu rõ: “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là người đứng đầu trong xây dựng pháp luật; chống tiêu cực ngay trong công tác xây dựng pháp luật, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào, không để xảy ra tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật”; Kết luận số 12-KL/TW ngày 06/4/2022 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đề cập đến một số nội dung như: “Khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực; trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch”; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đề ra quan điểm chỉ đạo: “Thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật”.
[5]. Điều 62, Điều 63 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
[6]. TS. Nguyễn Quốc Văn (2024), Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, https://tapchicongsan.org.vn/, truy cập ngày 15/5/2025.
[7]. GS. TS. Hoàng Thế Liên (2024), Cải cách thể chế, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 16.
[8]. ThS. Nguyễn Đức Hùng (2021), Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng, https://lsvn.vn/, truy cập ngày 18/5/2025.
[9]. TS. Lê Khánh Ly, Đàm Văn Lợi (2023), Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong thiết chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam, https://noichinh.vn/, truy cập ngày 10/5/2025.
[10]. TS. Nguyễn Văn Cương (2024), Hệ thống pháp luật Việt Nam qua 80 năm xây dựng, hoàn thiện và yêu cầu bức thiết của việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 36.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Minh (2022), Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam, https://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1161/82474/ phong–chong-tham-nhung-trong-xay-dung-chinh-sach–phap-luat-o-viet-nam.aspx, truy cập ngày 15/5/2025.
2. GS. TS. Hoàng Thế Liên (2024), Cải cách thể chế, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. PGS. TS. Nguyễn Quốc Sửu (2022), Phòng, chống tham nhũng và kiểm soát vận động chính sách trong quy trình xây dựng pháp luật, https:// www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/phong-chong-tham-nhung-va-kiem-soat-van-dong-chinh-sach-trong-quy-trinh-xay-dung-phap-luat/, truy cập ngày 14/5/2025.
4. ThS. LS. Nguyễn Đức Hùng (2021), Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng, https://lsvn.vn/hoan-thien-co-che-chinh-sach-phap-luat-ve-phong-chong-tham-nhung1623638587-a105148.html, truy cập ngày 18/5/2025.
5. TS. Lê Khánh Ly, Đàm Văn Lợi (2023), Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong thiết chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam, https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202312/ky-2-mot-so-giai-phap-gop-phan-hoan-thien-co-che-phong-ngua-ngan-chan-tham-nhung-o-viet-nam-trong-thoi-gian-toi-hoan-thien-co-che-phong-ngua-ngan-chan-tham-nhung-trong-thiet-che-quyen-luc-nha-nuoc-o-v-313291/, truy cập ngày 10/5/2025.
6. TS. Nguyễn Quốc Văn (2024), Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, https://www. tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dungdang/-/2018/957002/mot-so-van-de-ve-phong%2Cchong-tham-nhung-trong-xay-dung-phap-luat-o-viet-nam-hien-nay.aspx, truy cập ngày 15/5/2025.
7. TS. Nguyễn Văn Cương (2024), Hệ thống pháp luật Việt Nam qua 80 năm xây dựng, hoàn thiện và yêu cầu bức thiết của việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 2 (435) tháng 8/2025)
https://danchuphapluat.vn/mot-so-van-de-ve-phong-chong-tham-nhung-trong-cong-tac-xay-dung-phap-luat-tai-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-7615-7615.html
Thuế TP. Hà Nội vừa đưa ra một số lưu ý tới người nộp thuế một số nội dung về đăng ký địa điểm kinh doanh và đăng ký, sử dụng hóa đơn điện tử của hộ kinh doanh.
Những quy định mới nhằm triển khai thực hiện liên thông đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế đối với hộ kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 168/2025/NĐ-CP và sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế của hộ kinh doanh theo quy định tại Thông tư số 86/2024/TT-BTC và thực hiện triển khai công tác quản lý thuế theo địa bàn hành chính 02 cấp. Theo đó:
Về mã số thuế của địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh
Từ ngày 01/7/2025, số định danh cá nhân được sử dụng làm mã số thuế của người đại diện hộ kinh doanh, đồng thời cũng là mã số thuế của hộ kinh doanh theo quy định tại Thông tư số 86/2024/TT-BTC ngày 23/12/2014.
Như vậy, không còn quy định cấp mã số thuế cho từng địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh; cơ quan thuế đã thực hiện chuyển đổi mã số thuế đã cấp trước đây cho hộ kinh doanh, địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh sang sử dụng số định danh cá nhân làm mã số thuế.
Số định danh cá nhân của người đại diện hộ kinh doanh được dùng làm mã số thuế duy nhất để kê khai, nộp thuế cho tất cả nghĩa vụ thuế của cá nhân và nghĩa vụ thuế phát sinh từ hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh, các địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh.
Về đăng ký địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh
Khi hộ kinh doanh đăng ký thành lập với cơ quan đăng ký kinh doanh, hộ kinh doanh khai thông tin địa chỉ trụ sở xác định theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 87 Nghị định số 168/2025/NĐ-CP. Thông tin này được truyền sang hệ thống của cơ quan thuế để cập nhật thông tin đăng ký thuế của hộ kinh doanh.
Khi hộ kinh doanh thành lập các địa điểm kinh doanh khác ngoài trụ sở thì không phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh, nhưng hộ kinh doanh phải thông báo cho Thuế cơ sở nơi đặt địa điểm kinh doanh thông qua việc kê khai đầy đủ thông tin về địa điểm kinh doanh tại tờ khai mẫu số 01/CNKD hoặc mẫu số 01/TTS (đối với hoạt động cho thuê tài sản) của kỳ tính thuế đầu tiên theo quy định tại Thông tư số 40/2021/TT-BTС.
Đối với các địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh đã được cấp mã số thuế trước ngày 01/7/2025, cơ quan thuế tích hợp các mã số thuế theo số định danh cá nhân.
Khi hộ kinh doanh chấm dứt hoạt động của địa điểm kinh doanh, hộ kinh doanh thực hiện thông báo với Thuế cơ sở nơi có địa điểm kinh doanh theo mẫu số 24.1/ĐK-TCT ban hành theo Thông tư số 86/2024/TT-BTC. Hộ kinh doanh có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ thuế với Thuế cơ sở nơi có địa điểm kinh doanh chấm dứt hoạt động theo quy định.
Hộ kinh doanh chấm dứt hoạt động kinh doanh thì các địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh cũng bị chấm dứt hoạt động. Sau khi nộp hồ sơ chấm dứt hoạt động địa điểm kinh doanh theo mẫu số 24/ĐK-TCT và hoàn thành nghĩa vụ thuế theo quy định, hộ kinh doanh nộp hồ sơ chấm dứt hoạt động đến cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định tại Điều 104 Nghị định số 168/2025/NĐ-CP.
Hộ kinh doanh thực hiện khôi phục mã số thuế theo quy định tại Điều 33, Điều 34 Thông tư số 86/2024/TT-BTC. Sau khi khôi phục mã số thuế, hộ kinh doanh thực hiện khai thuế cho các địa điểm kinh doanh theo quy định tại Thông tư số 40/2021/TT-BTC nếu địa điểm kinh doanh tiếp tục hoạt động.
Về đăng ký, sử dụng hóa đơn điện tử đối với hộ kinh doanh
Căn cứ Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ (đã được sửa đổi bởi Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025), thông tin đăng ký, sử dụng hóa đơn điện tử của hộ kinh doanh xác định như sau:
– Mã số thuế của hộ kinh doanh: Là số định danh cá nhân của chủ hộ kinh doanh.
– Tên, địa chỉ của hộ kinh doanh: Là thông tin tên, địa chỉ trụ sở ghi trên giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc thông tin địa chỉ đã được cơ quan thuế rà soát cập nhật tương ứng theo địa bàn hành chính 02 cấp.
– Cơ quan thuế quản lý: Là Thuế cơ sở quản lý địa bàn nơi hộ kinh doanh đặt trụ sở.
– Chứng thư số sử dụng: Hộ kinh doanh được sử dụng các chứng thư số đã cấp cho hộ kinh doanh và địa điểm kinh doanh trước đây còn hiệu lực.
Hộ kinh doanh tự xác định doanh thu theo hóa đơn điện tử để kê khai, tính thuế, nộp thuế cho Thuế cơ sở nơi hộ kinh doanh hoạt động sản xuất, kinh doanh (nơi có địa điểm kinh doanh hoặc nơi có bất động sản cho thuê) theo quy định tại Thông tư số 40/2021/TT-BТС.
Theo Minh Anh (Lsvn.vn)
https://lsvn.vn/mot-so-luu-y-ve-dang-ky-dia-diem-kinh-doanh-va-hoa-don-dien-tu-a164219.html
Cho ý kiến với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị, số lượng ngày tiếp công dân của Chủ tịch UBND tỉnh, xã chỉ 1 hoặc 2 ngày trong tháng nên không được ủy quyền thực hiện và phải quy định rõ nguyên tắc này ngay trong dự thảo luật.

Chủ tịch UBND tỉnh phải tiếp và lắng nghe ý kiến, chỉ đạo các cơ quan giải quyết
Theo Tờ trình của Chính phủ, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo đã lược bỏ các quy định liên quan đến cấp huyện trong công tác tiếp công dân và giải quyết tố cáo do chính quyền cấp huyện đã kết thúc hoạt động từ ngày 1/7/2025. Dự thảo Luật cũng hoàn thiện cơ chế tham mưu ở cấp tỉnh, bộ, ngành, đồng thời tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tham mưu ở cấp xã.
Đồng thời, sửa đổi quy định theo hướng Chủ tịch UBND cấp xã trực tiếp tiếp công dân định kỳ tại địa điểm tiếp công dân ít nhất 2 ngày trong 1 tháng (khoản 2, Điều 15 của Luật hiện hành quy định tiếp công dân ít nhất 1 ngày trong 1 tuần). Quy định này được sửa đổi nhằm phù hợp với quy mô của cấp xã hiện nay lớn hơn trước đây, phạm vi lĩnh vực quản lý được phân cấp, phân quyền nhiều hơn.

Liên quan đến phân cấp, ủy quyền trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho biết, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định các chủ thể có thẩm quyền được phân cấp, ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định không được phân cấp, ủy quyền. Tuy nhiên, Phó Chủ tịch Quốc hội cũng nhấn mạnh, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân là lĩnh vực được pháp luật xác định rất rõ chủ thể có thẩm quyền giải quyết. Mặt khác, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân.
“Thực tế thời gian vừa qua, tồn tại trong giải quyết khiếu nại, tố cáo có nguyên nhân phần nhiều do người có trách nhiệm lại không trực tiếp thực hiện theo quy định mà thường ủy quyền cho cấp phó, thậm chí ủy quyền của ủy quyền, dẫn đến đơn thư, vụ việc kéo dài và số vụ việc giải quyết chưa được như mong muốn”. Nêu thực tế này, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị, dự thảo Luật cần quy định rõ có được ủy quyền trong tiếp công dân hay không để thực hiện giải quyết khiếu nại có hiệu quả, đúng các chủ thể theo quy định.

Nhấn mạnh “tiếp công dân trước hết phải bảo đảm thực hiện đúng quy trình, thủ tục, nhưng liên quan đến chất lượng phải do người có thẩm quyền giải quyết trực tiếp tiến hành”, Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu Nguyễn Thanh Hải cho rằng, luật pháp đã quy định ai là người tiếp công thì người đó phải tiếp và phải là người có thẩm quyền giải quyết mới tiếp được, vì nếu người khác tiếp về sẽ chỉ báo cáo lại.
“Chủ tịch UBND tỉnh tiếp công dân một ngày trong một tháng thì phải tiếp và lắng nghe ý kiến, chỉ đạo các cơ quan giải quyết. Nếu ủy quyền cho Phó Chủ tịch UBND tỉnh tiếp, giải quyết, thậm chí còn “ủy quyền của ủy quyền” cho giám đốc sở thì cũng khó hiệu quả, vì các cán bộ này chỉ là người tham mưu. Trách nhiệm người đứng đầu rất cao và thẩm quyền giải quyết của người đứng đầu rất quan trọng. Cần hết sức cương quyết”, Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu đề nghị.
Mặt khác, theo Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu, thực tế giám sát việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại nhiều tỉnh, thành phố đã ghi nhận tình trạng ủy quyền diễn ra nhiều và ảnh hưởng tới chất lượng của việc tiếp công dân. Người dân phải đi lại nhiều lần vì không gặp được người đứng đầu. Trong khi đó, khi gặp được người đứng đầu, thì chỉ trong 15 – 20 phút đã giải quyết xong vụ việc. Do vậy, phải luật hóa việc tiếp công dân và yêu cầu tuyệt đối không được ủy quyền.
Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thanh Hải cũng đề nghị, cần cân nhắc với việc giảm số lượng ngày tiếp công dân của Chủ tịch UBND xã. Cấp xã, phường hiện nay đã lớn và rộng hơn, nhưng cấp xã không phải một cấp chính quyền trung gian. Việc bỏ cấp trung gian cũng để người dân được được tiếp cận với chính quyền nhiều hơn. Cấp xã phải gần với dân hơn mà dự thảo Luật quy định số ngày tiếp công dân của Chủ tịch UBND xã giảm một nửa so với hiện hành thì có hợp lý không, cần cân nhắc kỹ (?).
“Tinh thần của dự thảo Luật là không ủy quyền trong tiếp công dân”
Phát biểu tại phiên họp, Phó Chủ tịch HĐND TP. Hà Nội Phạm Thị Thanh Mai cũng nhận thấy, người có trách nhiệm tiếp công dân thuộc khối UBND hiện đang thực hiện ủy quyền rất nhiều. Tuy nhiên, từ thực tế địa phương, Phó Chủ tịch HĐND TP. Hà Nội cho rằng, nếu quy định “cứng” thời điểm Chủ tịch UBND tỉnh, xã tiếp công dân trong một tháng cũng sẽ dễ dẫn đến nguy cơ bị vi phạm.

Lý lẽ, theo Phó Chủ tịch HĐND TP. Hà Nội là bởi, Chủ tịch UBND xã hiện nay nhận trách nhiệm rất lớn, nên cần quy định Chủ tịch UBND xã phải trực tiếp tiếp dân bao nhiêu buổi, ngoài ra có thể ủy quyền hoặc ủy quyền theo vụ việc cụ thể. “Quy định như vậy vừa bảo đảm đúng nguyên tắc chủ thể chính là Chủ tịch UBND xã phải tiếp dân, nhưng cũng có độ linh hoạt, độ mở nhất định”, Phó Chủ tịch HĐND TP. Hà Nội đề nghị.

Dẫn thực tế từ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Duy Giảng cho biết, dù có quy định, nhưng với khiếu nại ở cấp tỉnh thì đầu tiên cấp vụ phải tiếp, nếu không đồng ý sẽ lên phó viện trưởng và tiếp tục không đồng ý sẽ lên Viện trưởng giải quyết. “Phải có bộ lọc, nếu tất cả các vụ việc đều đẩy lên cấp trưởng tiếp công dân sẽ không đủ thời gian để thực hiện”. Lưu ý điều này, Phó Viện trưởng Nguyễn Duy Giảng đề nghị quy định của dự thảo Luật phải bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn.
Giải trình về nội dung này, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Tiến Đạt khẳng định, “tinh thần của dự thảo Luật là không ủy quyền trong tiếp công dân”. Người đứng đầu phải tiếp công dân định kỳ theo đúng quy định. Dự thảo Luật chỉ bổ sung quy định trường hợp Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Tổng thanh tra Chính phủ trong thụ lý giải quyết tố cáo. “Dự thảo Luật chỉ có một nội dung về ủy quyền này, không quy định nội dung ủy quyền khác trong tiếp công dân”, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ nêu rõ.

Về số lượng ngày tiếp công dân của Chủ tịch UBND xã, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ cho rằng, với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hiện nay, quy mô quản lý của cấp xã lớn hơn, lĩnh vực quản lý rộng, được phân cấp, ủy quyền nhiều. Do đó, để phù hợp với tình hình thực tế, dự thảo Luật đề xuất giảm số ngày tiếp công dân của Chủ tịch UBND xã. Nếu không, cấp xã hiện nay rất nhiều việc sẽ dễ lại dẫn đến tình trạng ủy quyền tiếp công dân, không đúng với quy định của Luật cũng như không bảo đảm tinh thần thượng tôn pháp luật.
Liên quan đến nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương nêu rõ, dự thảo Luật đã quy định Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp xã mỗi tháng tiếp công dân 1 hoặc 2 ngày, thì không được phép ủy quyền thực hiện. Tuy nhiên, với giải quyết những vụ việc cụ thể, người đứng đầu có thể ủy quyền và cần được Chính phủ quy định hướng dẫn chi tiết để thống nhất trong thực hiện.
Theo
https://daibieunhandan.vn/du-thao-luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-luat-tiep-cong-dan-luat-khieu-nai-luat-to-cao-chu-tich-ubnd-tinh-xa-khong-duoc-uy-quyen-tiep-cong-dan-10390206.html
Chi tiết xem file đính kèm
Thực hiện kế hoạch số 2307/KH-TTCP ngày 23/9/2025 của Thanh tra Chính phủ về việc tổ chức đón Đoàn cán bộ Thanh tra Nhà nước Lào sang thăm, làm việc, trao đổi nghiệp vụ nâng cao tại Việt Nam, Trường Cán bộ thanh tra xây dựng Chương trình tập huấn, trao đổi nghiệp vụ. Chương trình gồm các chuyên đề:
Chuyên đề 1. Tổng quan về công tác thanh tra ở Việt Nam ;
Chuyên đề 2. Công tác của Trưởng đoàn Thanh tra;
Chuyên đề 3. Kỹ năng phân tích, đánh giá thông tin, tài liệu, tổng hợp kết quả thanh tra;
Chuyên đề 4. Kỹ năng vận dụng tâm lý trong thực hện nhiệm vụ của Trưởng đoàn Thanh tra;
Chuyên đề 5. Giám sát hoạt động của đoàn thanh tra;
Chuyên đề 6. Kỹ năng soạn thảo văn bản của Trưởng đoàn thanh tra.












